Mạnh Kim FB
Lịch
sử ngoại giao thế giới đang chứng kiến một “ca” rất lạ: thay vì xây
dựng đồng minh và lôi kéo đồng minh kẻ địch về phe mình, Trung Quốc lại
đẩy ra tất cả để đứng riêng một góc! Bắc Kinh đã đánh mất rất nhiều cơ
hội để biến họ thành một cường quốc châu Á thật sự, thay vào đó, họ đã
tự dâng khu vực cho Mỹ.
VỚI NHẬT
Năm 2009, cử tri Nhật đẩy đảng Dân chủ Tự do (LDP) ra khỏi cuộc chơi, lần đầu
tiên trong 50 năm, và đưa đảng Dân chủ (DPJ) lên nắm quyền. Tân Thủ
tướng Yukio Hatoyama công khai nói về ý tưởng thành lập một liên minh
Đông Á mới và bày tỏ sự gần gũi với Bắc Kinh. Đầu năm 2010, chính trị
gia Ichiro Ozawa dẫn một phái đoàn hùng hậu 143 nghị sĩ Nhật sang Bắc
Kinh. Ozawa là một chính khách sừng sỏ của Nhật, được mệnh danh “tướng
quân trong bóng tối” bởi ảnh hưởng hậu trường của ông lên sân khấu chính
trị nước này.
Chỉ vài tháng sau, tháng 8-2010, quan hệ
Nhật-Trung trở nên căng thẳng, bắt đầu từ vụ tuần duyên Nhật bắt một
thuyền trưởng Trung Quốc khi đoàn tàu cá Trung Quốc thâm nhập Senkaku.
Phản ứng Bắc Kinh là rất hung hăng. Họ yêu cầu Nhật thả thuyền trưởng
Trung Quốc ngay lập tức, và bật đèn xanh cho loạt cuộc biểu tình dữ dội
chống Nhật. Cùng lúc, Trung Quốc ngăn một số mặt hàng xuất khẩu đến Nhật
trong đó có đất hiếm. Đây là một trong những lần đầu tiên Bắc Kinh áp
dụng đòn trừng phạt kinh tế trong một xung đột lẽ ra không đáng làm to
chuyện. Yoichi Funabashi, tổng biên tập tờ Asahi Shimbun, gọi phản ứng
Trung Quốc là một “chiến dịch gây sốc và kinh ngạc”. Funabashi chính là
người từng hoạt động tích cực việc khuyến khích trao đổi du học sinh hai
nước và là một trong những người mạnh mẽ kêu gọi Nhật hàn gắn vết
thương chiến tranh với Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau vụ trên, Funabashi
buộc phải thốt lên: “Nhật và Trung Quốc đang ở hiện trường một vụ đổ nát
toàn diện và quanh cảnh trông ảm đạm trơ trọi trống vắng”. Trong cuộc
phỏng vấn sau đó, Funabashi cảnh báo rằng châu Á đang đối mặt với một
thứ luật rừng! Cuối cùng, chính thái độ của Trung Quốc đã trở thành
nguyên nhân một phần khiến chính trường Nhật thay đổi: cánh chính trị
thân Trung, DPJ, bị hất cẳng; và đảng LDP, thân Mỹ, trở lại, vào cuối
năm 2012.
VỚI ÚC
Là một trong những nước đầu tiên
nhận ra sự trỗi dậy Trung Quốc, Úc bắt đầu thắt chặt quan hệ kinh tế với
Bắc Kinh từ thập niên 1980. Mùa xuân mới trong cuộc tình Canberra-Bắc
Kinh đã bắt đầu bằng sự kiện “xông đất” của Hồ Diệu Bang năm 1985. Thủ
tướng Úc Bob Hawke háo hức đến mức phá vỡ nguyên tắc thông thường trong
ngoại giao tiếp đón nguyên thủ quốc gia và xem Hồ Diệu Bang như một
người bạn khi đưa họ Hồ đến vùng đất giàu khoáng sản Pilbara xa xôi ở
phía Tây nước Úc cách Canberra hơn 3.000 km.
Bức ảnh chụp hai
người, đều vận sơmi trắng và không mang cà vạt, đứng trên một ngọn núi
hướng mắt về nơi xa xa, nơi có một trong những quặng sắt lớn nhất thế
giới, đã trở nên nổi tiếng như một dấu ấn lịch sử quan hệ hai nước. Năm
2007, Kevin Rudd, người mà báo chí Trung Quốc gọi thân mật bằng cái tên
tiếng Hoa là Lục Khắc Văn (Lu Kewen), đã trở thành lãnh đạo một nước
phương Tây đầu tiên biết nói thông thạo tiếng Hoa. Tương tự Hàn Quốc,
Đài Loan và một số nước châu Á, Úc hưởng lợi đáng kể từ sự phát triển
kinh tế Trung Quốc. Quan hệ kinh tế song phương đến nay vẫn tăng đều.
Hiện tại, ¼ xuất khẩu Úc đang đổ vào thị trường Trung Quốc. Trong chuyến
công du Trung Quốc tháng 4-2014, Thủ tướng Úc Tony Abbott đã dẫn theo
phái đoàn đông chưa từng có (hai nước dự kiến ký Hiệp định Tự do thương
mại vào cuối năm 2014).
Từng có một thời điểm rộ lên nguồn tin
cho biết, một số viên chức cấp cao Trung Quốc đã thẳng thắn đề nghị
Canberra “chơi” theo “kiểu Pháp”: vẫn là một phần của liên minh phương
Tây nhưng tách khỏi Mỹ để đi theo con đường riêng. Khuynh hướng “bỏ
Mỹ-thân Trung” còn được ủng hộ từ một số nhân vật tên tuổi của Úc. Cựu
Thủ tướng Malcolm Fraser nói rằng cách tiếp cận của Mỹ đối với Trung
Quốc là một phiên bản thời Chiến tranh lạnh. Chỉ trích của cựu cố vấn
chính phủ Hugh White thậm chí còn gay gắt hơn. Trong bài bình luận
“Power Shift”, Hugh White viết: “Nếu không rút khỏi châu Á và không chịu
chia sẻ quyền lực với Trung Quốc, Mỹ phải chấp nhận đấu với thách thức
Trung Quốc về khả năng ai mới là kẻ xứng đáng lãnh đạo”. Greg Sheridan,
biên tập viên đối ngoại tờ The Australian, gọi bài bình luận của White
là “tài liệu chiến lược độc nhất và ngu xuẩn nhất từng được soạn cho
lịch sử Úc”!
Thế nhưng Bắc Kinh lại làm vuột mất bàn tay người
tình Canberra. Một lần nữa, cũng chỉ bắt nguồn từ một sự kiện không mấy
nghiêm trọng. Năm 2009, Hồ Sĩ Thái (Stern Hu), công dân Úc gốc Hoa làm
việc cho tập đoàn khai thác khoáng sản Rio Tinto tại Thượng Hải, bị
Trung Quốc bắt với cáo buộc đánh cắp bí mật quốc gia. Lúc đó, Rio Tinto
đang dính vào cuộc tranh cãi căng thẳng với Bắc Kinh quanh vấn đề giá
sắt. Cáo buộc dành cho Hồ Sĩ Thái sau đó được làm nhẹ bớt, với tội đánh
cắp bí mật thương mại. Hồ Sĩ Thái bị kết án 10 năm tù. Báo chí Úc tin
rằng chính vụ tranh cãi với Bắc Kinh mới là nguyên nhân khiến Rio Tinto
bị “xử” và Hồ Sĩ Thái chỉ là một nạn nhân vạ lây. Dù vậy, chính sự hung
hăng trong chính sách đối ngoại khu vực của Trung Quốc mới là nguyên
nhân khiến Úc nhìn Bắc Kinh bằng cặp mắt lo ngại.
Cuối năm
2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đến Úc, tuyên bố đưa 2.500 thủy quân
lục chiến đến nước này. “Lợi ích lâu dài của chúng tôi trong khu vực đòi
hỏi sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực. Hoa Kỳ là một
cường quốc Thái Bình Dương, và chúng tôi đến đây để ở lại” – Obama phát
biểu tại Quốc hội Úc. Sự hiện diện của 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ đã
thể hiện một “chính sách bảo hiểm” cho một tương lai không chắc chắn
trước sự đe dọa an ninh từ Trung Quốc mà Úc bắt đầu nhận ra. Và trong
chuyến công du Hoa Kỳ vào giữa tháng 6-2014, Thủ tướng Tony Abbott đã
đứng tên chung với Tổng thống Obama trong bài xã luận đăng trên Los
Angeles Times. Bài có đoạn: “Cả Úc và Hoa Kỳ đều quan ngại rằng hành vi
gây hấn tăng dần trong các cuộc tranh chấp biển đảo tại châu Á đang tạo
ra một nguy cơ ngày càng tăng của tính toán sai lầm và, trong trường hợp
xấu nhất, dẫn đến xung đột… Cả hai nước chúng tôi đều phản đối việc sử
dụng hăm dọa, ép buộc hoặc xâm lược trong vấn đề tranh chấp của bất kỳ
quốc gia nào”.
VỚI PHILIPPINES
Có lúc tưởng chừng
Trung Quốc đã “mua” được Philippines. Dưới thời Tổng thống Gloria
Macapagal Arroyo, Trung Quốc từng dứ ra đĩa mồi thơm phức: 2,8 tỉ USD
(chưa kể 330 triệu USD cung cấp hệ thống băng thông rộng kết nối 25.000
văn phòng chính quyền). Năm 2005 là thời điểm quan hệ Manila-Bắc Kinh ở
đỉnh cao. Đó là lúc “Joint Marine Seismic Undertaking” (JMSU; ký năm
2004) bắt đầu có hiệu lực. JMSU là thỏa ước giữa Philippines, Việt Nam
và Trung Quốc về việc thăm dò một khu vực 142.886 km2 phía Tây Palawan
nằm hoàn toàn trong chủ quyền Philippines. Dư luận Philippines phản ứng
gay gắt, cho rằng Arroyo bán đứng đất nước. Quốc hội Phi tin rằng đây là
một điều kiện mà Bắc Kinh đặt ra để đổi lấy khoản vay 2,8 tỉ USD… Quan
điểm đối ngoại của Arroyo rất rõ: anh em xa không bằng láng giềng gần.
Tuy nhiên, tay láng giềng này, với một quan hệ mà Arroyo từng nói rằng
“bắt đầu bước sang thời hoàng kim” khi tiếp Hồ Cẩm Đào trong chuyến công
du Manila tháng 4-2005, đã gây ra liên tiếp va chạm căng thẳng từ các
vụ xâm nhập đánh cá. Cuối cùng, thái độ ngang ngược của Trung Quốc khiến
thay đổi diện mạo chính trị Philippines, với cuộc thắng cử của Benigno
Aquino III vào tháng 5-2010, đưa Manila chuyển hẳn sang trục Mỹ.
***
Kết quả chính sách đối ngoại đưa mình lên vị trí trung tâm khu vực của
Bắc Kinh: Càng cố đẩy Mỹ ra xa, Trung Quốc càng khiến Mỹ gắn chặt quyền
lợi hơn với châu Á. Càng cố lôi kéo các nước châu Á, Trung Quốc càng
khiến họ nhảy về phía Mỹ. Bắc Kinh không thể không nhận ra điều này
nhưng họ tin rằng đây là thời khắc chín mùi để thể hiện sức mạnh. Một
vài phép thử rải rác từ năm 2009 cho thấy phản ứng yếu ớt của khu vực
trong khi Mỹ vẫn chưa thực hiện xong kế hoạch “cắm cọc” đã khiến Bắc
Kinh tự tin đẩy cực nhanh tốc độ “xử lý dứt điểm” vấn đề biển Đông. Ở
đây có lẽ không cần thiết nói về cái được cái mất trong chính sách đối
ngoại của Bắc Kinh, vì nó quá rõ – như lời chính Thời Ân Hoằng (Shi
Yinhong), học giả có sức ảnh hưởng mạnh tại Trung Quốc, rằng: “Chúng tôi
đã giành được những điều hoàn toàn trái ngược với những gì mà chúng tôi
hy vọng muốn có” – mà cần nhấn mạnh vấn đề ở một khía cạnh khác:
Trung Quốc, bất chấp hậu quả nhãn tiền, vẫn đang đi theo một chủ trương
đối ngoại, vượt ngoài chuẩn tắc bang giao chính trị hiện đại, trong đó
không có khái niệm của sự tử tế, thành thật và tôn trọng. Họ không cần
đồng minh, họ chỉ muốn chư hầu! Họ không cần cam kết quan hệ bền vững mà
chỉ muốn có sự qui phục lâu dài! Thật chua xót đối với bất kỳ nước nhỏ
nào vẫn còn ngây thơ tin rằng mình đang được Trung Quốc đối xử ngang
bằng và tôn trọng như một quốc gia với một quốc gia!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét