Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 10: Thủ thổ

Basam

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 10: Thủ thổ

Nguyễn Tiến Dân
31-12-2014

THỦ THỔ



Khi, bị giặc xâm chiếm, từng hòn Đảo của Tổ quốc. Khi, bị giặc dịch chuyển, từng cột mốc, của Biên giới Quốc gia. Tất yếu, người ta: Phải tìm cách, chống lại. Phải tìm cách, giữ Đảo – giữ Đất.
Có những kẻ, giữ Đảo – giữ Đất, bằng cách tăng quân và chạy đua vũ trang. Chúng, bắt mọi nam thanh niên, phải phục vụ 2 năm, trong quân ngũ. Khiến, Ngân sách Quốc gia, không thể, chịu đựng nổi. Chúng, dốc những đồng ngoại tệ hiếm hoi, của Đất nước, mua vài cái vũ khí hiện đại. Và, hí hửng tin rằng: Bọn giặc kia, với chiến thuật “biển người”, sở trường. Cũng phải run sợ và chùn bước, trước chúng. Chúng, chưa hề biết,“Quân Hình”, nó như thế nào và, chẳng biết, “Binh Thế”, nó ra làm sao. Kiến thức của chúng, đâu có hơn gì, lũ trẻ con.
Chu Văn vương và Khương Tử nha, không đánh giá cao, cách làm ấy. Hai ông, thảo luận, phép giữ Đất – giữ Nước, 1 cách căn bản nhất. Đó là: “Cố kết Nhân tâm” và, chăm lo cho: “Dân giàu – Nước mạnh”.

                         守土
文王问太公曰:守土奈何?  Văn vương vấn Thái công viết: Thủ thổ nại hà ?
Văn vương hỏi Thái công: Người ta “giữ Đất” bằng cách nào?
太公曰:无疏其亲. Thái công viết: Vô sơ kì thân.
Thái công trả lời: Không xa lánh, người thân. Không để, mất đoàn kết, trong nội bộ.
无怠其众. Vô đãi kì chúng.
Không bao giờ, được coi thường Dân chúng. Chẳng nên, coi họ là lũ ngốc. Để, có thể, lừa bịp họ, 1 cách trắng trợn. Chẳng nên, coi họ như cỏ rác. Để, có thể, bóp nặn họ, 1 cách tàn nhẫn. Để, có thể, hành hạ và kết tội họ, 1 cách tùy tiện – trái Pháp luật.
Không bao giờ, được coi thường, Ý chí và Nguyện vọng của Nhân dân. Tự do – Dân chủ – Nhân quyền, là khát vọng chung của bất cứ Dân tộc nào. Chẳng nên, đi ngược.
抚其左右. Phủ kì tả hữu.
Chăm lo đời sống, cho đội ngũ cán bộ – viên chức. Những người, làm công – ăn lương, nói riêng và Đời sống của toàn Dân, nói chung. Hưởng ân huệ của Chúa, họ sẽ hết lòng, vì Chúa.
御其四旁. Ngự kì tứ bàng.
Giao thiệp hữu hảo – bình đẳng, với lân bang và, tìm cách, khống chế họ. Khi, đã thân thiện với ta: Họ, sẽ không cố tình, gây sự với chúng ta.
无借人国柄. 借人国柄,则失其权. Vô tá nhân quốc bính.Tá nhân quốc bính, tắc thất kì quyền.
Chúa, còn ấu thơ. Không thể dễ dãi, đem quyền bính của Đất nước, trao cho Tể tướng. Để, nhờ ông ta nhiếp chính. Làm như vậy, Chính quyền, mất dễ như bỡn.
Dân trí còn thấp”, càng không thể, nghe theo, lời dỗ ngon – dỗ ngọt của 1 cái đảng nào đấy. Mà, trao quyền bính của Đất nước, cho riêng chúng. Và, ngây thơ, tin vào lời hứa: Chúng, sẽ “lo” cho Dân tộc. Một khi, quyền bính, đã có trong tay, lũ “ma cô” này, mười đứa – như một chục. Chúng, đều tiếm quyền và đẩy Nhân dân – Chủ nhân của Đất nước, xuống hàng nô lệ. Và, thiết lập, chế độ độc tài, để cai trị Dân chúng.
Nhân dân, phải được thật sự, làm chủ Đất nước của mình. Đó, mới là, bức tường thành, vững chắc nhất. Để, bảo vệ Tổ quốc.
无掘壑而附丘. Vô quật hác nhi phụ khâu.
Người ta: Chẳng nên, đào đất ở thùng đấu, mà đắp lên gò cao. Chẳng nên, múc nước ở dưới sông, đổ lên ruộng bậc thang, mà cấy lúa.
Cải tạo đồi trọc, căn bản, có 2 cách: Hì hục, gánh từng sọt đất màu, ở chân đồi. Đem đổ đầy, vào những hố, trên đỉnh núi, để trồng cây. Hoặc đào hố, rồi xẻ rãnh. Cho nước mưa, tải dần đất màu chảy vào và đọng lại ở đấy. Sau đó, ung dung trồng cây. Thời “Ngu công chuyển núi”, người ta, tuyên dương Anh hùng Lao động, cho loại người thứ nhất. Thời @, người ta, đánh giá cao, dạng người thứ 2.
Quân chủ, khi trị Nước – an Dân, không được:
                              Bòn khố rách, sắm dù – sơn kiệu.
                              Hút máu Dân, làm rượu – làm trà.
Phải, lấy “lá lành, đùm lá rách”. Chẳng nên, làm ngược lại.
无舍本而治末. Vô xả bản nhi trị mạt.
Không bỏ gốc, để trị ngọn”. Trị bệnh, đòi hỏi, phải khám bệnh. Tìm ra căn bệnh, sau đó, mới kê đơn – bốc thuốc. Không thể, thấy bệnh nhân, ấm đầu. Lúc nào, cũng đắp cái khăn mặt ướt, lên trán.
Muốn người ta, không đi biểu tình. Không thể, dùng cách: Ngồi bịt cổng – không cho họ, ra khỏi nhà. Phải tìm hiểu và, loại trừ được nguyên nhân, khiến người ta, đi biểu tình. Khi đó, đâu cần, dùng đến hạ sách kia.
Chống tham nhũng, không nhất thiết, phải mang, mấy tay tham nhũng tép riu, ra xử. Rồi, nhốt chúng vào tù. Quan trọng nhất, phải loại bỏ, Chế độ độc tài. Chế độ, mà người ta, có thể dựa vào đó, để tham nhũng.
Dân lầm than – Đất nước tiêu điều. Bởi, nhà cầm quyền, cố tình bám lấy và đi theo, những học thuyết sai lầm. Muốn Dân giàu – Nước mạnh, phải từ bỏ những học thuyết ấy. Không thể, làm Cách mạng, bằng những hình thức, cải lương – nửa vời.
日中必彗. Nhật trung tất tuệ.
Ở nông thôn, người nông dân, thường dậy từ rất sớm. Họ cầm chổi, quét nhà – quét sân – quét vườn. Sau đó, muốn làm gì thì làm.
操刀必割. Thao đao tất cát.
Cha – Mẹ, để lại cho sản nghiệp. Thày – Cô, dạy cho cách làm ăn. Có nghề nghiệp – có tiền của, phải lao động không ngừng. Khối tài sản ấy, mới lớn lên được.
执斧必伐. Chấp phủ tất phạt.
Tướng – Soái, nhận phủ – việt (斧 – 鉞, biểu tượng quyền lực) của Chúa. Phải tận tâm – tận lực, thực thi công vụ. Chấp pháp, tất phải: Thưởng người có công và, Trừng phạt kẻ có tội. Không thể, làm khác được.
日中不彗,是谓失时. Nhật trung bất tuệ, thị vị thất thời.
Mặt trời đứng bóng, nhà vẫn chưa quét. Đầu, không xuôi – Đuôi, sao lọt. Mọi kế hoạch trong ngày, sẽ bị đảo lộn.
操刀不割,失利之期. Thao đao bất cát, thất lợi chi kì.
Có nghề ngỗng. Nhưng mơ mộng, ôm bao nhiêu kế hoạch trong tay.Đứng núi nọ – trông núi kia, chẳng chịu làm gì. Mọi cơ hội kiếm lợi, sẽ lần lượt, trôi qua trước mũi.
执斧不伐,贼人将来. Chấp phủ bất phạt, tặc nhân tương lai.
Tranh giành, để đòi, nắm cho bằng được quyền bính. Nắm được quyền bính rồi: Người có công, chống tham nhũng, thì nhốt họ vào tù. Bọn tham nhũng: “bao nhiêu năm cầm quyền, tôi chưa hề kỉ luật 1 ai”. Làm gì, mà loạn lạc – giặc dã, chẳng nổi như ong, ở khắp 4 phương trời.
涓涓不塞,将为江河. Quyên quyên bất tắc, tương vi giang hà.
Dòng nước kia, chảy ra từ 1 khe suối nhỏ. Nếu, không được lấp đi: Tương lai, nó sẽ thành dòng sông .
荧荧不救,炎炎奈何. Huỳnh huỳnh bất cứu, viêm viêm nại hà.
Trên thảo nguyên: Chỉ cần, 1 mẩu thuốc lá, rơi xuống mà không bị dập tắt. Cánh  đồng cỏ mênh mông ấy, dễ biến thành, biển lửa.
两叶不去,将用斧柯. Lưỡng diệp bất khứ, tương dụng phủ kha.
Hai nhành cây non, nếu không được bứt đi, mà để cho nó, tự lớn. Sau này, muốn trừ khử, người ta, phải cậy nhờ, đến: Đao to – Búa nhớn.
Lề mề và biếng nhác. Đó, là nguyên nhân hàng đầu, của mọi thất bại.
是故人君必从事于富. Thị cố nhân quân tất tòng sự vu phú.
Vua – Chúa, phải lấy việc Dân giàu – Nước mạnh, đặt lên hàng đầu. Việc đó, không nên, trông chờ vào chỗ, đào tài nguyên đem bán. Việc đó, phải chủ yếu, dựa trên cơ sở, sản xuất. Như, nước Nhật đang làm.
Mọi tiềm năng, như: đất đai – đồng ruộng – sông hồ – núi đồi… phải, được giao cho, người có vốn và biết cách làm ăn. Để, họ khai thác. Và, làm ra, của cải – vật chất, cho xã hội. Họ đã làm, tất phải để cho họ, được hưởng thành quả. Chớ nên, ăn cướp của họ.
Vua – Chúa, phải lo cho Dân: Ai cũng có, công ăn việc làm. Ai cũng chí thú, làm ăn: Họ, sẽ không nổi loạn. Dân giàu, Nhà nước thu được nhiều thuế và, trở lên mạnh.
Kiếm được đồng tiền, đã khó. Làm cho đồng tiền ấy, sinh sôi – nảy nở, muôn vạn lần khó hơn. Tiền của, trước hết phải dồn cho tái sản xuất. Khoan vội, đem xây lăng tẩm – tượng đài. Khoan vội, đem xây, mỗi tỉnh 1 cái nhà hát. Ma nào, đến xem.
Khơi dòng, sản xuất. Đồng thời, diệt trừ tham nhũng – xa hoa – lãng phí. Đó, là 2 trụ cột, khiến cho, Dân giàu – Nước mạnh.
不富无以为仁,不施无以合亲. Bất phú vô dĩ vi nhân, bất thi vô dĩ hợp thân.
Đất nước, không giàu có. Lấy đâu ra tiền, để chăm lo phúc lợi cho Dân chúng. Đất nước, không giàu có. Lấy đâu ra tiền, để cho trẻ con – đứa nào, cũng được cắp sách đến trường. Học, mà không phải lo, học phí. Đất nước, không giàu có. Lấy đâu ra tiền, để ai ốm đau – bệnh tật, cũng được bệnh viện, cứu chữa tận tình. Đất nước, không giàu có. Lấy đâu ra tiền, để nuôi quân và mua sắm vũ khí.
Đất nước, không giàu có. Từ Quan cho tới Dân, ai cũng thấm nhuần: “Mình không ăn, kẻ khác, chúng sẽ ăn hết” và, “Hãy tự cứu mình, trước khi Trời cứu”. Kết quả, cả Xã hội, giẫm đạp lên nhau, để sống. Dân chúng, ai cũng chỉ, lo cho mình. Đảng, cũng chỉ, lo cho mình. Xã hội, tất hỗn loạn. Xã hội hỗn loạn, giặc kia, tất kéo quân sang. Lúc đó, vô phương chống đỡ.
疏其亲则害. Sơ kì thân tắc hại.
Bẻ đũa từng chiếc, dễ. Bẻ đũa cả nắm, vô phương. Khối Đại đoàn kết, một khi không còn: Đất nước, dễ bị tiêu diệt.
失其众则败. Thất kì chúng tắc bại.
Mất lòng tin của quần chúng, cầm chắc, bại vong trong tay.
Một người, tài hoa như Hồ Nguyên Trừng, cũng phải thốt lên, với Vua cha: “Thần, không sợ đánh. Chỉ sợ, lòng Dân không theo”.
Những người CS: Họ, chỉ sùng bái bạo lực. Họ, tồn tại, mà không cần đến, lòng tin của quần chúng. Thật là, nông nổi. Nga xô: Quân đông – Tiền lắm – Vũ khí nhiều. Dân chúng không theo, nên họ đổ. Việt cộng, nếu không nhanh tay, sửa chỗ yếu chết người này. Chắc chắn, họ, sẽ có kết cục, giống Nga xô.
Ở châu Âu, “dân trí, còn tương đối cao”. Khi CS đổ, chẳng ai, nghĩ đến chuyện trả thù. Ở Việt nam, những người CS, luôn thi hành những sách lược, hết sức “ưu việt”. Khiến cho, đến tận bây giờ, “Dân trí (Việt nam), vẫn còn thấp lắm”. Như, chính họ, đã từng công khai, thú nhận. Không biết, khi CS đổ, quần chúng có trả thù hay không. Và, ở mức độ nào?
无借人利器. Vô tá nhân lợi khí.
Phòng thủ Đất nước, không thể và chủ yếu, trông chờ vào vũ khí hiện đại của người ngoài. Người Việt nam, qua hình tượng Thánh Gióng, họ đánh địch,với mọi loại vũ khí có trong tay. Thậm chí, có khi, chỉ cần 1 bụi tre. Họ, không làm như Việt cộng: Chăm chăm, sắm những loại vũ khí, hiện đại còn hơn cả của Trung quốc. Nhưng, không bao giờ, dám có ý định, đem ra dùng.
Năm 1972, Hoa kì, đã tung ra, những loại thủy lôi tối tân nhất. Để, phong tỏa Hải phòng và các cảng biển của Việt nam. Tối tân đến mức: Chính họ, cũng không phá được. Người Việt nam, không có tiền để mua. Và, muốn mua, cũng chẳng ai bán cho, loại vũ khí, trên cơ của Hoa kì. Nhưng, với trí tuệ của mình, họ chế ra những tàu quét lôi: Đơn giản – Hiệu quả – An toàn tuyệt đối. Họ, phá sạch, những bãi thủy lôi của Hoa kì. Và, từ đó đến nay: Thiên hạ, chưa từng ghi nhận, bất cứ 1 vụ nổ thủy lôi Hoa kì, trên lãnh hải của Việt nam.
Dân Việt, có câu: “Bắc nước, đợi gạo người”. Là để, chế riễu bọn người, chuyên ỷ lại.
借人利器,则为人所害而不终其世也. Tá nhân lợi khí, tắc vi nhân sở hại nhi bất chung kì thế dã.
Chỉ thích, dựa dẫm vào nước ngoài. Những người CS, coi khinh, máy bay trực thăng – tàu ngầm tự chế, của con dân đất Việt. Họ, đâu biết rằng: Ỷ lại, vào vũ khí hiện đại của nước ngoài, người ta, dễ bị họ làm hại và, có chung cuộc chẳng tốt đẹp gì. Câu chuyện, Tư Mã Ý, bắt chước Khổng Minh, để chế ra Trâu gỗ – Ngựa máy. Chẳng là, bài học đắng cay, đó sao.
Ỷ lại, vào vũ khí hiện đại của nước ngoài. Sao không nghĩ: Giặc kia, một khi nó tung tiền ra mua (Mà chắc chắn, là mua được), mật mã điều khiển. Những vũ khí kia: May lắm, chỉ là đồ phế liệu. Tệ hại hơn, nó còn hủy diệt, chính người sử dụng nó.
文王曰:何谓仁义? Văn vương viết: Hà vị nhân nghĩa?
Văn vương hỏi: Nhân – Nghĩa, nên được hiểu, như thế nào?
太公曰:敬其众,合其亲. Thái công viết: Kính kì chúng, hợp kì thân.
Thái công trả lời: Kính trọng Dân chúng và Bảo vệ, khối Đại đoàn kết của toàn Dân. Như, “bảo vệ con ngươi của mắt mình”.
敬其众则和,合其亲则喜. Kính kì chúng tắc hòa, hợp kì thân tắc hỉ.
Kính trọng Dân chúng. Tôn trọng ý chí và nguyện vọng của họ: Không cần, nhiều nhà tù – Chẳng cần, lắm công an, xã hội cũng vẫn bình an.
Khối Đại đoàn kết của toàn Dân, được đảm bảo. Trên dưới, đồng lòng – Anh em, hòa thuận: Có việc gì, mà không thể, giải quyết vui vẻ với nhau. “Chín (cũng có thể), bỏ làm mười”. Việc gì, phải dùng đến, nắm đấm.
是为仁义之纪. Thị vị nhân nghĩa chi kỉ.
Đó, được coi, là chuẩn tắc của Nhân – Nghĩa.
无使人夺汝威. Vô sử nhân đoạt nhữ uy.
Phải tu luyện, để nhìn thoáng qua, là biết ngay: Kẻ nào có dã tâm, đoạt quyền uy của mình. Và, có kế hoạch, trừ khử chúng. Như, cách Mao Trạch Đông, diệt Lâm Bưu. Như, cách những người CS, loại tinh hoa của Dân tộc, qua vụ Nhân văn – Giai phẩm.
因其明,顺其常. Nhân kì minh, thuận kì thường.
Chuẩn bị, Đại hội cổ đông của 1 cái băng đảng, nào đấy. Người ta, phải lắng nghe, ý kiến của mọi người. Phải chịu đựng, cả những lời góp ý, hết sức chối tai. Phải nhìn, việc Thiên hạ đã làm. Để, rút kinh nghiệm. Để, không phải “trả học phí”, cho “những việc làm ngu ngốc”. Nhưng, khi quyết định, nhất thiết, phải dựa vào, sự minh xét của chính mình. Chẳng nên, “đẽo cầy giữa đường”. Chẳng nên, nghe theo “lời khuyên”, của những thằng bạn đểu. Chúng bảo: Gạt Ông này ra – là phải gạt. Chúng bảo: Đưa Thằng kia vào – là phải đưa.
Cầm quyền ở đâu, nên dựa vào, phong tục – tập quán, ở đó. Cầm quyền ở đâu, nên dựa vào quy luật vận động của Tự nhiên, ở đó.
Cùng là người Trung hoa. Nhưng, cai trị dân Bắc kinh: Phải làm khác, cách cai trị dân Hồng công. Phải làm khác, cách cai trị dân Tây tạng. Nếu, không muốn nhận, sự chống đối quyết liệt của họ.
顺者任之以德. Thuận giả, nhậm chi dĩ Đức.
Những kẻ: Ta bảo “đi”, là chúng phải cất bước – Ta bảo “họ”, là chúng phải dừng. Những kẻ: Ta bảo “sủa”, là phải “gâu gâu” – Ta bảo “cắn”, là phải nhảy bổ vào, cắn xé người ta, “bất cần biết, đúng – sai”. Những loại Trâu – Chó ấy, phong chức và trao quyền cho chúng. Để, Thiên hạ biết rằng: Ta, là bạo Chúa.
逆者绝之以力. Nghịch giả, tuyệt chi dĩ lực.
Sinh con, Cha – Mẹ nào, cũng mong muốn, họ thành Người. Không muốn, họ trở thành Con vật. Dạy học trò,Thày – Cô nào, cũng mong muốn, họ phân biệt được, lẽ Phải – Trái. Tu dưỡng Đạo Đức, ai cũng mong, mình hiểu và làm việc Nhân – Nghĩa. Ít người mong, mình trở thành, lũ du côn.
Vì thế, người Quân tử: Không thể, uốn lưỡi. Để, ca ngợi bọn kẻ cướp, là những Anh hùng. Không thể, uốn cong ngòi bút. Để, viết sách, ca ngợi chế độ độc tài: “ngàn – vạn – triệu – tỉ” lần, Dân chủ hơn, so với chế độ Tư bản. Vì việc đó: Họ, bị lũ bạo Chúa, đầy ải. Họ, bị chúng, khai trừ ra khỏi băng đảng. Họ, bị chúng, cách tuột mọi chức vụ. Họ, bị chúng, thu hồi hết mọi quyền lợi.
Họ, cam tâm – tình nguyện. Đến chết, cũng không đổi lòng. Thác rồi, trên bia mộ, chỉ ghi: Tên mà Cha – Mẹ đặt cho, khi sinh ra đời. Bí danh đã dùng, khi phục vụ Nhân dân – phục vụ Đất nước. Đơn giản, chỉ thế. Nhưng, họ sẽ sống mãi, trong lòng Dân tộc.
敬之勿疑,天下和服. Kính chi vật nghi, Thiên hạ hòa phục.
Kính trọng và tin tưởng vào Nhân dân. Thiên hạ sẽ hòa phục.
Thiên hạ hòa phục. Không 1 kẻ thù nào, dám nhòm ngó, đến Tổ quốc yêu quý của chúng ta. Chúng không đến: Tổ quốc ta – Trường tồn.
Đó là “thủ Thổ” – là kế sách “giữ Đất”, một cách căn bản và vẹn toàn nhất.
Lời bàn

1-Bàn về chuyện, “giữ Đất”. Nhưng, chẳng hề, nói đến chuyện, “đóng đồn – lập bốt”. Không “tâm tư”, về chuyện “quân lắm – tướng nhiều”. Không đánh giá quá cao, về vũ khí hiện đại. Xoay đi – xoay lại, cũng chỉ bàn về “lòng Dân”. Coi đó, là nhân tố căn bản, để “giữ Đất”. Ôi! Vĩ đại thay, Trí tuệ của người xưa.
2-Trung hoa, đã giỏi. Việt nam, nào có kém gì. Ở đền Trùng hoa – Nam định, có 1 đôi câu đối:
善用眾心保國泰山有鏡.Thiện dụng chúng tâm, bảo Quốc Thái sơn hữu kính
好崇佛法撫民平水無分. Hảo sùng Phật pháp, phủ Dân bình thủy vô phân.
Tạm dịch:
Giỏi, làm đúng tâm nguyện của quần chúng. Cho nên, bảo đảm thế Nước, vững như núi Thái sơn. Tấm gương ấy, còn soi mãi.
Khéo, sùng Đạo Phật (như Dân chúng). Cho nên, vỗ yên được Dân chúng và, Giữ cho Xã tắc bình yên. Giống như, mặt nước phẳng lặng. Chẳng gì, có thể, phân ra được.
Thế mới biết: Tại sao nhà Trần, Đứng vững và Chiến thắng Nguyên – Mông. Giữ yên, được bờ cõi.
3-Phải, nói lên, 1 sự thực. Rằng: Hồ Chí Minh, tin tưởng vào toàn Dân. Cho nên, vũ trang cho toàn Dân. Để đánh, cái mà ông gọi, là “giặc”. Thiên hạ, dạo ấy hòa phục. Cho nên, dẫu súng đạn đầy đường: Nhưng, không hề có bạo loạn. Và, miền Bắc, vẫn được bảo vệ, vững chắc.
Nay, những người CS và quần chúng, đâu dễ có tin nhau: Đến pháo, họ cũng chẳng dám, cho Nhân dân đốt. Đương nhiên, họ đâu dám: Vũ trang cho toàn Dân, để chống lại, kẻ thù thực sự của Dân tộc. Bởi, họ dư biết: Có vũ khí trong tay, trước khi, chiến đấu với kẻ thù. Người ta, sẽ “tảo thanh” Hậu phương. Quần chúng, sẽ lôi bọn tham nhũng ra, để hỏi tội. Chính quyền, đầy những bọn đó. Nó, tồn tại sao được. Đổ rồi, làm gì còn có chuyện, được độc quyền “Lãnh đạo cuộc kháng chiến” và, Tranh công, trong ngày vui, mừng Chiến thắng của Dân tộc.
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội
Điện thoại : 0168-50-56-430
************************
Mời xem lại : Phần mở đầu chép ở sau Bài 3
Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó :   PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.
Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 4: Minh truyền
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 5: Văn phạt
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 6: Thượng hiền
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 7: Phát khải
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 8: Thuận khải
Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 9: Binh đạo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét