Trích :“Về phần mình, Trung Quốc cho thấy họ không có ý định tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa.”http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/but-chien-ve-bien-dong-tren-bao-indonesia-2997452.html
Sao lại dùng chữ “Không có ý định” mà không dùng chứ KHÔNG CÓ hay CHƯA HỀ
Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn
Xuân Thủy vừa đăng bài trên mục ý kiến của báo lớn nhất nước này, bác bỏ
những quan điểm xuyên tạc mà đại sứ quán Trung Quốc đưa ra về công thư
1958.
Các tàu cảnh sát biển Trung Quốc hoạt động gần giàn khoan trái phép Hải Dương 981 ở vùng biển Việt Nam. Ảnh: Reuters
Ông Nguyễn Xuân Thủy hôm 27/5 đăng bài trong mục Ý kiến của tờ nhật báo hàng đầu Indonesia Jakarta Post.
Trong đó, ông vạch trần những luận điệu xuyên tạc về vấn đề chủ quyền ở
Biển Đông của ông Liu Hongyang, thường vụ viên Đại sứ quán Trung Quốc
tại Indonesia. Dưới đây là bài viết của ông Nguyễn Xuân Thủy trên Jakarta Post.
“Trong bài viết ‘Những hành động nguy hiểm của Việt
Nam’, ông Liu Hongyang, thường vụ viên của Đại sứ quán Trung Quốc tại
Indonesia, đề cập đến quần đảo Hoàng Sa là “lãnh thổ cố hữu của Trung
Quốc”. Cộng đồng quốc tế đã công nhận điều này từ Thế chiến I, trong khi
cố thủ tướng Việt Nam công khai công nhận quần đảo này và những quần
đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc vào ngày 14/9/1958.
Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm phải đưa ra những luận điểm sau để bác bỏ những thông tin sai lầm trên.
Thứ nhất, Việt
Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu lịch sử chính
thức đều cho thấy rõ ràng rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền một cách
hòa bình và liên tục với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ ít nhất là
thế kỷ 17, khi những lãnh thổ này vẫn còn được xem là vô chủ. Một minh
chứng rõ ràng cho thấy các hoàng đế Việt Nam đã củng cố chủ quyền với
các lãnh thổ trên là việc vua Minh Mạng cho xây dựng một ngôi chùa vào năm 1835 và đặt một tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa.
Về phần mình, Trung Quốc cho thấy họ không có ý định
tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, nhiều bản đồ mô
tả lãnh thổ của Trung Quốc dưới triều đại Nhà Thanh đều xem đảo Hải Nam
là cực nam của Trung Quốc. Một trong những bản đồ này gần đây đã được
Thủ tướng Angela Merkel tặng cho Chủ tịch Tập Cận Bình làm quà khi ông
sang thăm Đức hồi tháng ba.
Khi Pháp thiết lập sự bảo hộ đối với Việt Nam năm
1884, Pháp đã nhân danh Việt Nam đảm nhận quyền quản lý quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó, chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo
này đã được công nhận trong Hội nghị Hòa bình San Francisco diễn ra vào
tháng 9/1951 với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, nhằm giải quyết
vấn đề lãnh thổ hậu Thế chiến II.
Tại hội nghị này, người đứng đầu đoàn đại biểu Việt
Nam Trần Văn Hữu, thủ tướng dưới chính quyền của vua Bảo Đại, đã khẳng
định chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải sự phản đối
nào từ 50 đoàn đại biểu tham dự.
Có một điều thú vị cần nhấn mạnh tại hội nghị San
Francisco này là đề xuất sửa đổi cho Hiệp ước Hòa bình San Francisco,
trong đó công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa và Trường Sa,
đã bị 46/51 quốc gia tham dự bác bỏ.
Ngoài ra, những bên tham gia vào Hội nghị Geneva năm
1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương, mà Trung Quốc cũng là một trong
số này, đã xác nhận và tôn trọng sự độc lập và chủ quyền lãnh thổ của
Việt Nam. Là một nước tham gia vào hội nghị, Pháp tuân thủ Hiệp ước San
Francisco và rút lực lượng ra khỏi Việt Nam năm 1956. Việt Nam Cộng hòa
sau đó đã tiếp quản hai quần đảo trên, có nhiều hành động và đưa ra
nhiều tuyên bố để khẳng định chủ quyền với các quần đảo.
Không thể bác bỏ sự thật rằng năm 1974, Trung Quốc đã
sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Hành vi xâm lược này vi phạm
tiêu chuẩn tối thiểu của luật quốc tế về cấm sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế theo Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc
tế, việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa hiện nay của Trung Quốc là vô giá
trị, bất chấp người Trung Quốc đã ở đó bao nhiêu lâu và họ dùng những
biện pháp gì để thực thi sự quản lý của mình.
Bản thân Trung Quốc đã thông qua nguyên tắc này trong
một bản ghi nhớ vào ngày 12/5/1988 khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố
rằng sự xâm lược sẽ không bao giờ tạo ra chủ quyền. Từ góc độ pháp lý
và lịch sử, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa là
vô căn cứ. Do đó, lập trường của ông Liu rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc
Trung Quốc là sai.
Thứ hai,
ông Liu đã cố tình trích dẫn sai công thư ngày 14/9/1958 của cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng như một sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với
quần đảo Hoàng Sa.
Trong công thư, cố thủ tướng không hề đề cập đến đến
vấn đề lãnh thổ và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông chỉ ghi nhận và tán thành tuyên bố về vùng lãnh hải 12 hải lý của
Trung Quốc mà thôi. Bên cạnh đó, việc công thư không đề cập đến hai quần
đảo cũng phù hợp với thực tế lúc đó: hai quần đảo nằm dưới quyền quản
lý của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1956 như đã đề cập ở trên.
Trung Quốc, một nước tham gia Hiệp định Geneva, chắc
chắn biết rõ thực tế rằng phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được
chia cắt tại vĩ tuyến 17, như đã nêu trong Hiệp định Geneve 1954 về Việt
Nam.
Hơn nữa, những phát ngôn của Trung Quốc rằng không có
tranh chấp ở Hoàng Sa là trái với những gì mà các lãnh đạo nước này đã
công nhận. Ví dụ, vào tháng 9/1975, phó thủ tướng Trung Quốc khi đó là
Đặng Tiểu Bình đã nói với bí thư thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn
rằng hai bên có quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa và vấn đề
cần được giải quyết thông qua đàm phán. Tuyên bố này đã được ghi lại
trong bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988.
Tuy nhiên, có một điểm mà ông Liu nói đúng, đó là
“chúng ta không nên chỉ nghe từ một phía của câu chuyện”. Tôi coi bài
viết này là lời mời các độc giả đến với phía của tôi trong câu chuyện
này.”
Anh Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét