Huy Đức – Osin
(Cám ơn Nguyen Thanh Tuan đã thu xếp cho tôi gặp lại GS Thomas Bass)
Hơn 8 năm trước, ngày 10-3-2006, GS
Thomas Bass đã thu xếp để tôi phỏng vấn Henry Kissinger. Khi xem tấm ảnh
tôi chụp với Kissinger, ông đùa: “Nếu cậu là người Mỹ thì có thể lồng
kính bức ảnh này treo trong văn phòng”. Nói thế thôi, như số đông người
Mỹ khác, Thomas rất ghét Henry Kissinger.
Không có khoa ngoại giao của trường đại
học nào ở vùng Boston lại không bắt học trò đọc sách của Kissinger.
Nhưng, lần ấy, khi ông tới Boston dự Hội thảo Việt Nam and the
Presidency, sinh viên ý ới gọi nhau biểu tình phản đối. Tôi hỏi: “Tại
sao?”. Kissinger cười: “Cho dù ghét tôi thế nào thì họ cũng phải thấy
rằng, thế giới đã không thể có những thay đổi như thế này nếu không có
những quyết định của chúng tôi”.
Một trong những hành động mà người Việt
cộng sản thù ghét Kissinger nhất là cú bắt tay tháng 2-1972 giữa Nixon
và Mao. Đây là bước ngoặt lớn nhất trong quan hệ giữa Hà Nội với Bắc
Kinh. Thay vì có đủ tầm nhìn để nhận thấy sự thay đổi của thế giới sau
cú bắt tay đó, để có những thay đổi thích hợp, Hà Nội đã phản ứng như
một cậu em quen được nuông chiều, giận lẫy vì bị “ông anh bán đứng”.
Cuối tháng 3-1972, khi Hà Nội dồn sức
chiếm bằng được cổ thành Quảng Trị. Nixon quyết định dùng B-52 ném bom
ra tới Vinh để chặn đường tiếp tế. Ngày 3-4-1972, Kissinger gọi đại sứ
Dobrynin của Liên Xô đến Nhà Trắng, trách cứ Liên Xô “đồng lõa” với cuộc
tiến công của Hà Nội. Liên Xô khi đó đang muốn có cuộc gặp “thượng
đỉnh” với Nixon, ngầm cho Kissinger biết rằng, họ không muốn rủi ro
quyền lợi của mình bằng cách ủng hộ vô điều kiện cho Hà Nội.
Cùng ngày, Kissinger cử Winston Lord tới
New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên hợp quốc, chuyển tới
Hoàng Hoa “thông điệp miệng” (oral message) rằng, Mỹ sẽ ra lệnh cho tàu
chiến ra khỏi lãnh hải Hoàng Sa 18 dặm thay vì 3 dặm như “vị trí lịch
sử” của Mỹ. Như vậy, tới lúc đó Washington mới bắt đầu “công nhận” tuyên
bố 1958 của Chu Ân Lai (Ngày 19-1-1974 Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa,
Hạm đội 7 đã án binh bất động).
Ngay sau đó 20 B-52, lần đầu tiên được
đưa ra miền Bắc, ném bom xuống khu vực Vinh. Các cuộc tấn công này không
ngăn được Hà Nội, ngày 1-5-1972, tiến chiếm thủ phủ Quảng Trị. Nhưng
những thỏa thuận ngầm đạt được với Maxcova và Bắc Kinh đã khiến cho
Nixon tự tin cho thả thủy lôi phong tỏa miền Bắc.
Kissinger hài lòng khi TASS khẳng định
“sẽ giành cho nhân dân Việt Nam sự hỗ trợ cần thiết” thay vì “sự hỗ trợ
tăng thêm” như họ lo lắng. Còn Nhân Dân Nhật Báo thì tuy dùng những lời
lẽ đao to búa lớn, đã trấn an người Mỹ bằng cách vẫn chỉ coi Trung Quốc
là “hậu phương” của Việt Nam. Ngày 15-9-1972, người Mỹ giúp miền Nam lấy
lại Quảng Trị.
Sau năm 1979 khi Trung Quốc đánh Việt
Nam, có giai thoại: Năm 1973, Kissinger đến Việt Nam, nói với Lê Đức Thọ
rằng, mối đe dọa của Việt Nam từ nay không phải là người Mỹ mà là
phương Bắc. Khi nghe tôi nhắc lại chuyện này, Kissinger cười: “Tôi đến
Hà Nội, Lê Đức Thọ đưa tôi đi thăm bảo tàng lịch sử, ở đó tôi không hề
thấy phần trưng bày nào nói đến chiến tranh với Mỹ, trong khi có rất
nhiều phần nói về các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc.
Với chừng đó kinh nghiệm, anh nghĩ là Hà Nội còn cần một lời khuyên của
tôi hay sao!”
Huy Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét