Boxitvn
Tương Lai
Gượm
hãy chụp mũ kẻ viết câu này là “thân Tàu”. Vì cái giàn khoan là một
phép thử. Đại để như học trò làm thí nghiệm trên tờ giấy quỳ. Nhúng mảnh
giấy quỳ vào dung dịch, nếu giấy quỳ giữ nguyên màu tím thì dung dịch
đó trung tính, nếu ngả sang màu xanh thì dung dịch đó mang tính kiềm,
nếu chuyển sang màu đỏ thì dung dịch đó mang tính axit. Cũng thế với cái
giàn khoan 981 kẻ cướp, giữa thanh thiên bạch nhật, hùng hổ, ngang
ngược tọa đặt vào vùng biển của Việt Nam với hàng trăm tàu chiến tháp
tùng máy bay yểm trợ cố tình khiêu khích.
Chúng định làm gì? Khoan dầu ư? Cũng có thể. Siêu
cường “trỗi dậy hòa bình” đang khát nhiên liệu. Nhưng với nhiều nhà bình
luận quốc tế cũng như những học giả am hiểu về Trung Quốc thời Đặng
Tiểu Bình cũng như thời Tập Cận Bình đều cho rằng đây là một phép thử.
Thử bản lĩnh và cách ứng xử của đối phương trong tham vọng bành trướng
mà cái “lưỡi bò” ham hố thè ra với đường 9 đoạn tự vẽ trên Biển Đông.
Một chiêu giương đông để kích tây, gõ trống khua chiêng, diễu võ giương
oai ở Hoàng Sa để ngấm ngầm quyết liệt mưu toan ở Trường Sa?
Trò đời, cái anh già mồm, bạo miệng hùng hùng, hổ hổ
lại là anh thiếu tự tin trước đối thủ. Họ muốn thử phản ứng của Mỹ, của
Nhật mà họ tự biết sự to xác của một quốc gia với hơn 1,2 tỷ dân, tuy đã
có sự trỗi dậy mạnh mẽ khá ngoạn mục để đoạt ngôi vị thứ 2 về kinh tế
của Nhật nhưng còn kém xa Nhật về nhiều mặt mà nhiều thập kỷ nữa vẫn
chưa có thể đuổi kịp chứ chưa nói đến Mỹ. Và rồi, sự quyết liệt của Thủ
tướng Nhật Shinzo Abe, của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel khiến cho
Trung Quốc mất mặt ở “Đối thoại Shangri La”, trước công luận quốc tế!
Nhục quá hóa liều, viên tướng đại diện cho đoàn Trung Quốc nổi đóa làm
xôn xao hội trường. “Khó có thể hiểu sao phía TQ lại tỏ ra cộc cằn đến vậy. Có lẽ vì họ bị phê phán quá nhiều tại cuộc đối thoại lần này“, ông Christian Le Miere của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), đơn vị tổ chức “Đối thoại Shangri-La” nhận xét.
Để chữa thẹn và trấn an người dân Trung Quốc, ngày
3.5.2014, CNR và CCTV phải đưa tin về tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt
Nam để cho dân họ thấy là tàu họ mạnh hơn, nhiều hơn, hiện đại hơn nhưng
đâm ra “giấu đầu hở đuôi”, tạo hiệu ứng ngược “lạy ông tôi ở bụi này”!
Tính toán sai lầm trong phép thử khiến chiếc mặt nạ “trỗi dậy hòa bình” rơi xuống, để lộ nguyên hình bộ mặt hiếu chiến một “siêu cường nhưng chưa trưởng thành” với sự ngạo mạn của một “kẻ gây hấn tiềm tàng trong khu vực” nhưng tự biết mình yếu thế như nhận định của Gabriel Grésillon, thông tín viên của Les Echos thường trú tại Bắc Kinh.
Nhưng có lẽ cái “phép thử” cho ra kết quả ngoạn mục nhất lại là với Việt Nam, người láng giềng “cùng chung thức hệ xã hội chủ nghĩa“, từng “thắm tình hữu nghị, núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông” vốn “sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”
(?!) với ông chủ cái giàn khoan kẻ cướp kia! Cách đây chưa lâu có những
người bị đạp vào mặt, đánh cùi chõ vào mũi, nện dùi cui vào đầu vì đã
dám thẳng thắn chỉ ra sự lừa mị của bốn điều đặc biệt nọ cùng với phương
châm 16 chữ bịp bợm kia, thì nay chính cái giàn khoan kẻ cướp này đã
lột trần sự lừa mị, bịp bợm đó mà không cần phải phân tích lý lẽ, định
hướng tuyên truyền, đăng đàn diễn thuyết cho khô cổ bỏng họng làm gì mất
công!
Lời tuyên bố rành rọt và đanh thép của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Việt
Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm
độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định
không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa
bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó” đã thể hiện được ý
chí và khát vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đi thẳng vào lòng người,
chạm đến cái điểm sâu kín nhất, thiêng liêng nhất trong tâm thế dân tộc
Việt. Những người am hiểu về thời cuộc hiểu rõ rằng không hề đơn giản để
nói lên được điều hợp lòng dân đó. Tầng tầng lớp lớp những rào cản đã,
đang và sẽ còn giăng ra từ những thế lực vẫn muốn bám víu lấy thứ “hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc”
nhằm giữ lấy cái ghế quyền lực đã lung lay rệu rã của những Ích Tắc,
Chiêu Thống thế hệ mới! Thì chẳng phải không thiếu những tiếng kèn lạc
điệu gây bất bình, căm phẫn công luận nhưng lại được cất lên dõng dạc ở
những nơi rất chi là trang nghiêm đó sao!
Cho nên, liệu có phải tuyên bố đó đánh dấu một giai
đoạn mới trong ứng xử với Trung Quốc? Câu hỏi được đặt ra đòi hỏi một sự
giải đáp. Tuy nhiên, để minh bạch và sòng phẳng cho lời giải đáp ấy thì
còn cần phải có sự tiếp sức của ý chí và sức mạnh của dân tộc được khởi
đầu từ nhận thức và hành động của mỗi một người dân, của các tầng lớp
nhân dân, trước hết là của trí thức và thanh niên. Áp lực của lòng dân,
sức dâng trào của làn sóng công luận là động lực thúc đẩy lịch sử đi tới
từ những bước tiệm tiến đến những đột phá khó mà nói trước được.
Lịch sử vốn thế. Và thời gian đang ủng hộ cho những quyết sách hợp lòng dân.
Thì đó, liên tục từ đầu tháng 5.2014 đến nay, hệ
thống truyền thông đại chúng đã liên tục đưa tin bằng những lời mạnh mẽ,
quyết liệt, gọi đúng tên kẻ cướp thật khoái tai. Những chiếc “tàu lạ”
dạo nào nay đã được chỉ đích danh là tàu Trung Quốc, là bọn kẻ cướp đang
hung hăng hoành hành trên vùng biển của ta. Hy vọng rằng những cố gắng
không mệt mỏi của những biên tập viên Đài Truyền hình, những thiên phóng
sự nóng hổi được chiếu trên màn hình, những trang báo mạnh mẽ, sống
động của “lề phải” đang vạch mặt kẻ xâm lược sẽ đủ sức xua bớt đi những
mơ hồ, lệch lạc đã từng gieo bám vào đầu óc của bà con ta về nước “Trung
Quốc xã hội chủ nghĩa anh em” nhất là ở nông thôn, những nơi không có
đủ điều kiện theo dõi tin tức từ mạng internet, cũng là do họ buộc phải
xướng lên, viết lên chứ cũng chẳng phải ai khác. Ngoạn mục cũng ở đây mà
xót xa cũng ở đó!
Xem ra, lật mặt nạ kẻ “mượn màu son phấn đánh lừa con đen“*, bắt nó hiện nguyên hình là “cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người“*
bấy lâu nay cố công tô son, trát phấn cho những điều “thiêng liêng”
được xem là “nhạy cảm” bậc nhất này cũng là từ cái giàn khoan đang phơi
mặt ra giữa Biển Đông cả đấy thôi. Đúng là họa trung hữu phúc,
trong cái rủi có cái may! Không phải ai khác mà chính Trung Quốc, bằng
hành động ăn cướp của mình đã lộ diện là một siêu cường hiếu chiến khiến
khu vực Đông Á, Đông Nam Á, châu Á và cả thế giới phải cảnh giác. Có
thể mượn lời cũng của Gabriel Grésillon để nói về hình ảnh cái giàn
khoan 981 bất chấp pháp lý và đạo lý: “Nơi đây là mồ chôn của sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc“!
Mà thật ra, làm sao “trỗi dậy hòa bình” được khi mà
tư tưởng bành trướng Đại Hán đã ăn sâu vào cốt tủy và não trạng giới cầm
quyền của đế chế Trung Hoa qua các triều đại từ xưa đến nay. Điều cay
đắng phải nói là do vị thế địa-chính trị oái oăm của đất nước liền kề
với nước láng giềng khổng lồ khiến cho dân tộc Việt Nam hiểu rõ hơn ai
hết về hiểm họa tiềm tàng chưa bao giờ dứt này. Không thể chuyển bán đảo
hình chữ S đứng nhìn ra Biển Đông đi nơi khác mà sống thì phải bám trụ
lại với khí phách “có cứng mới đứng đầu gió” như bao đời ông cha ta răn dạy.
Cho nên, phải cảnh giác! Tinh thần cảnh giác chống
ngoại xâm đã khắc sâu vào tâm thế của một dân tộc luôn phải thường trực
chống lại nguy cơ đồng hóa của chủ nghĩa bành trướng đại Hán vốn cũng
thường trực trong não trạng các thế lực cầm quyền Trung Quốc. Lịch sử
Việt Nam dày đặc những trang chống ngoại xâm. Và dường như chưa đủ, ông
cha ta còn tạc vào hình thể núi sông những chứng tích trường tồn cùng
năm tháng để răn dạy con cháu bài học cảnh giác. Hình tượng con voi cụt
đầu ở vùng đồi trung du miền Bắc trong truyền thuyết về 100 ngọn đồi, 99
còn nguyên vẹn, một bị sạt lở mất đỉnh, đấy là hình ảnh con voi bị chém
vì đã lìa đàn quay đầu về phương Bắc là một ví dụ. Hòn Vọng Phu ở Đồng
Đăng, Lạng Sơn là một ví dụ khác.
Cần nói thêm rằng, trên đất nước này, không chỉ có
một Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn, mà còn nhiều Hòn Vọng Phu khác nữa, chẳng
hạn, Hòn Vọng Phu trên đỉnh núi Bà, Bình Định, Hòn Vọng Phu trên đỉnh
M’drak, Đắk Lắk, Hòn Vọng Phu trên đỉnh núi Nhồi, Thanh Hoá, Hòn Vọng
Phu bên bờ khe Giai,
bản Cơ Lêc, Nghệ An… Chiến tranh chống ngoại xâm diễn ra triền miên,
hình ảnh người vợ đứng ngóng chồng trở về từ chiến trường đã hóa đá là
một biểu tượng bi tráng của dân tộc này. Khát khao hòa bình, chấm dứt
chiến tranh, vì thế, là đòi hỏi của cuộc sống.
Tranh thủ mọi điều kiện và phương tiện để duy trì hòa
bình, chủ động tránh đẩy tới chiến tranh là chiến lược và sách lược của
người lãnh đạo có bản lĩnh và viễn kiến chính trị hiểu rõ khát vọng của
dân và xu thế chung của thế giới. Song hòa bình không thể thực hiện
bằng sự nhu nhược và đớn hèn. Đơn giản chỉ vì kẻ xâm lược không bao giờ
có thiện ý từ bỏ mưu đồ của chúng. Cho nên, hòa bình chỉ giữ được khi
chúng ta có thực lực. Thực lực ấy được khởi động, quy tụ và phát huy từ ý
chí và sức mạnh của cả dân tộc bắt đầu từ mỗi người dân. Thật dễ hiểu,
vì “chúng ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới” đó là chân lý nghiệt ngã. Chúng chỉ buộc phải dừng lại trước khí phách của cả một dân tộc không chịu cúi đầu như đã từng “cửa Hàm tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã”... khiến cho chúng “ra đến biển chưa thôi trống ngực, về đến Tàu còn đổ mồ hôi” mà Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”.
Thì chẳng phải là chiến tranh, ngoài những cuộc tranh
bá đồ vương khiến người dân buộc phải làm đá lát đường cho những cỗ xe
quyền lực lăn bánh, phần lớn là chiến tranh chống xâm lược đến từ phương
Bắc của các vương triều Trung Hoa Tần, Hán, Tùy Đường… Tống, Nguyên,
Minh, Thanh và hậu duệ của họ. Càng nguy hiểm hơn khi những kẻ bành
trướng thế hệ mới lại khoác lên mình bộ áo khoác “ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa” để dễ bề thực hiện mưu toan bao đời của một đế chế muốn mở rộng
cánh cửa về phía Nam.
Chính cái “ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” được lồng ghép, nhào nặn vào trong “bốn quan hệ tốt đẹp” và “phương châm 16 chữ”
bịp bợm và lừa mị kia là liều thuốc lú đầu độc não trạng đối phương còn
thâm hiểm hơn nhiều mọi thứ vũ khí giết người khác mà Trung Quốc đã sử
dụng để tàn sát dân ta trong cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm
1979, cuộc chiến kéo dài ở vùng núi Lão Sơn năm 1984… Những “Viện Khổng
Tử” thời Tập Cận Bình xét cho cùng, cũng chỉ là kế tục âm mưu thâm độc
thể hiện trong sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi viên tướng viễn chinh Chu
Năng ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406): “Một khi binh lính vào
nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không
thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại
(sách) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng
đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước
phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn
thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ
chớ để còn”!
Khởi nguồn từ đây, những lừa mỵ, bịp bợm về bốn điều
tốt và phương châm mười sáu chữ khiến cho chiến lược bành trướng càng
thêm thâm độc khi mà tội ác chúng gây ra với chiến tranh biên giới phía
Tây Nam rồi chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 vào lúc đất nước này
chưa kịp hàn gắn những vết thương của một cuộc chiến tàn khốc kéo dài.
Phải làm vậy vì chúng hiểu rõ Việt Nam là cục xương ngáng ngang họng
không cho chúng nuốt trôi miếng mồi chúng thèm muốn. Chỉ tính từ 1974,
trong 40 năm “xây đắp tình hữu nghị anh em cùng chung ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa” thì “người anh em láng giềng” đã 5 lần xua quân xâm lược Việt
Nam!
Với lần thứ 5 này thì thủ đoạn của chúng lại tinh vi
và nham hiểm gấp bội với những chiêu giương đông kích tây, cùng với màn
diễu võ giương oai ngoài biển là thủ đoạn gây rối kích động tại các khu
công nghiệp với một mũi tên bắn ra nhằm nhiều đích ngắm đi liều với
những thủ đoạn tinh vi thu gom, mua vét rễ cây, móng trâu, móng bò nhằm
diệt nguồn nguyên liệu phá hoại sản xuất gây bất ổn về kinh tế xã hội..
Xem ra chủ đích thâm hiểm của cái giàn khoan 981HD không là chuyện dầu
mỏ, cho dù đó là sự thèm thuồng khôn nguôi của chúng, vì không dễ để lấy
được dầu ở đó với một chi phí khổng lồ mà những tính toán kinh tế không
cho phép. Mục tiêu chính trị với ý đồ khuynh loát Biển Đông của Trung
Quốc nhằm hợp pháp hóa “cái lưỡi bò” ham hố và bẩn thỉu của những đầu óc
điên cuồng mộng bành trướng tự vẽ ra bất chấp pháp lý lẫn đạo lý thông
thường mới là điều cần vạch rõ trước công luận. Cái giàn khoan kẻ cướp
sớm muộn cũng phải rút, nhưng còn đó sân bay và những căn cứ quân sự nổi
tại bãi đá Gạc Ma, bãi đá Chữ Thập mà chúng đang đẩy nhanh tiến độ xây
dựng nhằm làm nên một chuyện đã rồi trên Biển Đông. Quyết liệt đuổi cái
giàn khoan chính là để quyết liệt vạch trần âm mưu thâm hiểm định làm
nên “chuyện đã rồi” đó. Đẩy nhanh việc đưa Trung Quốc ra tòa như
Philippines đã làm chính là một trong những hành động quyết liệt đó. Dư
luận quốc tế đang đứng về chúng ta, bỏ lỡ cơ hội sẽ có tội với đất nước.
Thật ra, tất cả những điều vừa kể chẳng mới mẻ gì. “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua “,
cuốn sách do nhà xuất bản Sự Thật phát hành năm 1979 đã dẫn ra câu của
Mao nói với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam do Tổng bí thư Lê Duẩn
dẫn đầu tại Vũ Hán năm 1963 đủ giải thích tất cả. Có lẽ nên dẫn ra đây
một tư liệu lưu trữ tại Thư viện QĐNDVN đoạn Lê Duẩn nói về vấn đề này: “Trước
khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò
chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng
chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500
triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” Đặng
Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng
tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!”. Khi chúng tôi đã ra
ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước
ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên
tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút
nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!”.
Chính vì thế khi trả lời câu hỏi của nhà báo Pháp Danielle Hunebel, Cơ quan Phát thanh-Truyền hình Quốc gia Pháp ORTF: “Có
một vài ý kiến cho rằng miền Bắc Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh khá cô
lập và nói một cách chính trị, khó có thể tránh khỏi trở thành một thứ
vệ tinh của Trung Quốc. Có thể nói gì về việc này“, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không một giây do dự, dằn giọng trả lời “Không bao giờ“! Chính ở đây, Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách cô đọng và thấm thía nhất lời nguyền của ông cha ta từ thuở “các vua Hùng có công dựng nước” và nay các thế hệ Việt Nam phải biết cách “giữ lấy nước“.
Mà cũng vì thế, cái phép thử nhiệm mầu của cái giàn
khoan ăn cướp kia cũng thể hiện rõ nhất ở đây. Cách ứng xử của mỗi người
dân Việt Nam, từ bà bán rau ngoài chợ đến ông tiến sĩ trên bục giảng
cho đến ông lãnh đạo cao ngất ngưởng chốn thâm cung kín cổng cao tường
kia trước “cái giàn khoan made in China” này như một “dung dịch” giúp
làm hiện rõ lên họ thuộc loại nào: là “trung tính“, “mang tính kiềm” hay “mang tính axit”
khi “tấm giấy quỳ” được nhúng vào đó giữ nguyên màu tím hay ngả sang
màu xanh hoặc chuyển sang màu đỏ! Những “tính kiềm”, “tính axit” hay là
“trung tính” hiện hình rõ nét trong rất nhiều sự kiện, việc làm, thái
độ, tình huống ứng xử, từ một chủ trương, chính sách cho đến một tuyên
bố, một phát ngôn.
Chẳng hạn như có quyết liệt và dứt khoát sử dụng công
cụ pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa hay không, có quyết liệt đẩy tới việc
thực thi dân chủ để huy động được tối đa sức mạnh của dân không. Có
quyết liệt xây dựng thể chế nhằm tạo ra động lực phát triển mới, cụ thể
hóa bằng những giải pháp của nguyên lý “Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp “song sinh” trong một thể chế chính trị hiện đại“. Có quyết liệt thực thi những nguyên tắc đã được khẳng định hay không: “Nhà
nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật. Pháp luật phải bảo đảm được
công lý và lẽ phải. Mọi hạn chế quyền tự do của công dân phải được xem
xét cẩn trọng và chủ yếu nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội và những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc. Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không
cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật
cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch”.
Lời nói đi đôi với việc làm, bằng việc làm để chứng
minh rằng đây là những lời nói thật, đó chính là sức mạnh quy tụ được
lòng dân. Chỉ khi quy tụ được lòng dân, khởi động sức mạnh của dân thì
tư tưởng mới trở thành sức mạnh vật chất. Cuộc sống đã chứng minh những
ai đến với dân, đi với dân, đáp ứng được ý chí nguyện vọng của dân, được
dân ủng hộ, người ấy sẽ thắng. Mà vì vậy đời sống đang diễn ra muôn màu
muôn vẻ mà ở đó cần những tấm giấy quỳ làm hiệ rõ ra màu sắc thật của
những con người trong thời buổi nhiễu nhương vàng thau lẫn lộn.
Chao ôi! Chưa lúc nào cuộc sống lại nghiệt ngã một cách bi tráng và thú vị như những ngày tháng 5, tháng 6 này! “Này này sự đã quả nhiên…Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma“*, cái phép thử do ông Tập Cận Bình bày ra “chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe“**
để bây giờ lộ nguyên hình cả lũ! Đương nhiên, cũng phải dè chừng có kẻ
ma mãnh biết chớp lấy thời cơ để như con kỳ nhông đổi màu nhằm “thay bậc đổi ngôi“,
không chỉ chuyển sang “trung tính” mà còn “cầm đèn chạy trước ô tô”
bằng những lời rất chi là quyết liệt. Cũng chẳng sao, dân họ tinh lắm,
tím, xanh, vàng, đỏ họ biết cả, khỏi lo! Vả chăng, lịch sử rất sòng
phẳng.
Quả thật “trong ánh chớp của những cơn dông sáng lòe trong một giai đoạn chuyển động, người ta thấy các sự việc và con người như trần truồng…“, đó là lời của Einstein. Thời gian sẽ là vị quan tòa nghiêm minh phán xét về các sự việc và con người ấy. “Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần“, đó là cảnh báo của Nguyễn Du.
Vì vậy mà phải “cám ơn” cái giàn khoan kẻ cướp.
TP HCM ngày 7.6.2014
T. L.
Tác giả gửi BVN.
___________________
* Truyện Kiều. Lời quan xử kiện và lời tác giả ** Lời Tú Bà mắng Mã Giám Sinh và Thúy Kiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét