Boxitvn
Dương Danh Huy
Tường
thuật của ngư dân và clip về việc tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc bao
vây, đuổi và đâm chìm làm tôi nhớ lại một chuyện thời sinh viên. Hôm
đó, tôi thấy trong một thư viện của đại học một quyển sách với một chuỗi
hình chụp từ máy bay. Những hình này chụp lại cảnh một chiếc thuyền của
người Việt tỵ nạn trong thập niên 1980 bị nhiều thuyền hải tặc bao vây.
Thuyền hải tặc dùng bạt che số hiệu và đâm húc cho đến khi chiếc thuyền
xấu số chìm. Không biết bao nhiêu sinh mạng đã bị dập tắt trong lòng
biển. Lần này may mắn là các nạn nhân được cứu.
Từ năm 2009, Trung Quốc đã đâm húc tàu thuyền ngư dân
Việt Nam, bắn họ, đánh đập họ, bắt họ, đòi tiền chuộc, cướp phá hoại
tài sản của họ biết bao nhiêu lần. Hoàng Sa thì từ khi Việt Nam và Trung
Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, họ khăng khăng là không có
tranh chấp, không có gì để đàm phán. Trong cuộc đối đầu về giàn khoan
Hải Dương 981, họ đã đâm hư hại 24 tàu của cơ quan nhà nước Việt Nam,
coi nhà nước Việt Nam không ra gì.
Với thực tế đó, còn có gì để nấn ná với khái niệm
“kiên trì đàm phán” nữa? Chắc chắn là Trung Quốc sẽ không nhượng bộ gì
về chủ quyền đối với các đảo. Về vùng đặc quyền kinh tế có thể có chung
quanh các đảo nói chung và vấn đề giàn khoan Hải Dương 981 nói riêng,
nếu Trung Quốc có nhượng bộ, chắc chắn là họ sẽ ra giá. Giá đó có thể là
công nhận “chủ quyền Trung Quốc” trên quần đảo và trong vùng nội thủy
và lãnh hải mà họ tuyên bố, hay là để cho họ cùng khai thác trong vùng
Tư Chính – Nam Côn Sơn. Thậm chí, cũng có thể một trong những mục đích
chính của Trung Quốc trong việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 là
để gây áp lực buộc Việt Nam cho họ cùng khai thác trong vùng Tư Chính –
Nam Côn Sơn.
Như vậy, thực chất của biện pháp “kiên trì đàm phán”
chính là vì “đại cục” mà hy sinh Hoàng Sa, và vùng biển Hoàng Sa có thể
có. Biện pháp thứ nhì, đối đầu trên thực địa, là không thể thiếu được,
nhưng là một cuộc chiến không cân sức cho Việt Nam. Việt Nam phải bổ
sung bên cạnh lòng dũng cảm, sự chịu đựng và hy sinh của cảnh sát biển
Việt Nam, kiểm ngư và ngư dân với biện pháp thứ ba: biện pháp pháp lý.
Ngày 23/5, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật
pháp quốc tế Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời phóng viên Reuters, “Cá nhân
tôi là một luật gia, tôi luôn luôn hỏi mình khi nào là thời điểm để sử
dụng biện pháp pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta phải chờ đợi quyết định của
Chính phủ”.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Chính trị sẽ quyết định “thời điểm nào hợp lý” cho việc kiện.
Tuy không phải là luật gia, tôi cũng tự hỏi, “Bao giờ
Bộ Chính trị Việt Nam mới quyết định xử dụng biện pháp pháp lý, một
biện pháp hòa bình, văn minh, và là biện pháp duy nhất trong đó Việt Nam
có thể chiến đấu một cách bình đẳng với Trung Quốc?”.
Dường như có điều gì đó làm họ chần chừ. Có phải là họ ngại trả đũa kinh tế từ Trung Quốc chăng?
Ngày xưa, khi trả lời câu hỏi “Hòa hay chiến?”, có lẽ
lãnh đạo và người dân Đại Việt cũng đã nghĩ tới những hệ quả xấu cho
nông nghiệp từ vó ngựa Mông Cổ. Có lẽ họ cũng đã nghĩ đến chiến lược
đồng không nhà trống có thể ảnh hưởng đến kinh tế thế nào. Và họ còn
phải nghĩ sẽ sinh bao nhiêu xương máu trước quân đội thiện chiến nhất
thế giới lúc đó. Nhưng câu trả lời của họ vẫn là câu trả lời mãi có
tiếng thơm trong lịch sử. Ngày nay, câu hỏi không khắc nghiệt bằng “Hòa
hay chiến?”, nó là “Kiện hay không kiện?” (Kiện ở đây là kiện Trung Quốc
đã vi phạm UNCLOS trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, không phải là
kiện để đòi lại Hoàng Sa, vì không có tòa nào có thẩm quyền để thụ lý
vụ kiện kiện để đòi lại Hoàng Sa).
Ngày nay, việc ra tòa để giải quyết tranh chấp là một
phương tiện văn minh. Hàng chục nước trên thế giới đã ra tòa để giải
quyết tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, trong đó có cả Thái Lan, Campuchia,
Mã Lai, Singapore và Indonesia. Philippines cũng đã phải hỏi câu hỏi
“Kiện hay không kiện?”, và họ đã có một trả lời không bị cột vào nỗi sợ
Trung Quốc sẽ trả đũa kinh tế, hay nỗi sợ nào đó khác.
Phải chăng sau bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước,
sau một trăm năm đánh đuổi ngoại xâm, hai mươi năm “nội chiến từng ngày”
hay “đánh đuổi đế quốc”, v.v., (tùy theo quan điểm của mỗi người), bốn
mươi năm xã hội chủ nghĩa, số phận của Việt Nam ngày nay là bị Phần Lan
hóa hơn cả Philippines? (“Phần Lan hóa” là thành ngữ dựa trên quan điểm
sau Thế Chiến 2, Phần Lan trên thực tế đã phải hy sinh phần nào sự độc
lập của mình vì phải tồn tại bên cạnh Liên Xô).
Quyển “Viêt-Nam: Sociologie d’une Guerre”, của Paul
Mus và quyển “Vietnam: A History” của Stanley Kanow ghi Hồ Chí Minh nói
một câu với ý thà ngửi phân Pháp năm năm còn hơn ngửi phân Tàu ngàn năm
(nhưng khó kiểm chứng sự thật là thế nào). Một trong những điều mà Đảng
Cộng sản Việt Nam cho là hào quang của mình là vai trò của họ trong
phong trào Việt Minh giành độc lập cho Việt Nam. Họ cũng cho rằng vai
trò của họ trong cuộc chiến 1954-1975 là một hào quang. Nhưng giả sử
điều thứ nhì có đúng đi nữa thì hào quang đó cũng có một bóng tối, đó là
khi đối diện với câu hỏi “Có nói Hoàng Sa, Trường Sa là của dân tộc
Việt hay không?” họ đã chọn trả lời sai. Dù trả lời sai đó có không làm
cho Việt Nam mất chủ quyền pháp lý đi nữa, thì đó cũng là một bóng tối
về luân lý. Nhưng, quan trọng hơn, nếu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản mà Việt Nam lâm vào tình huống phải “ngửi phân Trung Quốc ngàn năm” ở
Biển Đông thì vị trí của Đảng Cộng sản trong lịch sử Việt Nam sẽ cực kỳ
đen tối, không hào quang nào có thể soi sáng nổi. Tất nhiên, điều quan
trọng hơn tất cả là nếu điều đó xảy ra thì tương lai của Việt Nam sẽ cực
kỳ đen tối.
Hiện nay chưa biết được Việt Nam có sẽ lâm vào tình
huống đó hay không. Một trong những yếu tố có thể định đoạt là lãnh đạo
Việt Nam. Trả lời của Bộ Chính trị cho câu hỏi “Kiện hay không?” sẽ trả
lời những câu hỏi, “Lãnh đạo Việt Nam có dùng tất cả các biện pháp hòa
bình không? Có dùng tất cả những biện pháp cần thiết không? Có dùng tất
cả những biện pháp trong đó Việt Nam có thể đấu tranh một cách bình đẳng
không?”. Trả lời cho những câu hỏi đó sẽ là những chỉ số quan trọng về
lãnh đạo Việt Nam đối phó với Trung Quốc thế nào trong cuộc tranh chấp
có tính sống còn cho Việt Nam, có thể giúp chúng ta dự đoán về tương
lai, và có thể giúp Trung Quốc đánh giá về ý chí trên thực tế của lãnh
đạo Việt Nam.
Trung Quốc đã cố ý triển khai giàn khoan Hải Dương
981 ở một địa điểm mà Việt Nam có thể đơn phương kiện. Có thể đó là phép
thử của họ, xem lãnh đạo Việt Nam có dám kiện hay không. Nếu Trung Quốc
cho rằng lãnh đạo Việt Nam sợ trả đủa kinh tế, hay sợ điều gì khác, cho
nên không dám kiện, họ sẽ lấn tới và làm cho tình hình của Việt Nam
nguy khốn hơn.
Hiện nay, cảnh sát biển và kiểm ngư đang dũng cảm thi
hành nhiệm vụ của họ, ngư dân Việt Nam đang kiên trì bám biển dưới mũi
tàu sắt Trung Quốc, lòng dân đang bức xúc, nhưng chưa biết Bộ Chính trị
sẽ thi hành nhiệm vụ của họ thế nào.
D.D.H.
Tác giả gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét