Ba người khác
Chương 4
Mười mấy năm sau.
Hồi ấy thành phố vẫn bị máy bay Mỹ bỏ bom. Mới chập tối những đoàn
xe chở tân binh ầm ầm ngang qua trên cầu Long Biên. Tiếng hát vang động
những phố xá đi tránh bom đã vắng.
Rồi tôi lại trở về cơ quan. Người đi cải cách lũ lượt về, người
công tác sửa sai lại ba lô lên vai. Đã thành nếp mỗi khi nơi nào có công
tác quan trọng, mỗi cơ quan đều phải cử từng đợt đi. Ai cũng nhiệm vụ
đi, từ anh nuôi, chị tiếp liệu văn phòng, đến các bộ phận chuyên môn.
Chỉ có những chánh phó thủ trưởng “không đi được vì công tác lúc nào
cũng bù đầu”. Mà cũng không ai đề nghị thủ trưởng đi đâu.
Tôi đã đi cải cách cũng là thế. Những tôi đã đem được giấy chứng
nhận và giới thiệu “đồng chí Nguyễn Văn Bối được kết nạp đợt 5 cải cách
về sinh hoạt chi bộ cơ quan”. Đội trưởng Cự ký tên rồi đoàn uỷ đóng dấu
và chữ ký xác nhận. Cự nói “Chia tay, tớ tặng cậu cái này”. Tôi nghĩ
trong bụng: “Lão Cự tài thật, đoàn uỷ giải tán rồi mà vẫn lấy được dấu”.
Cự chỉ nói thế, rồi đi ngay. Có lẽ lão cũng ngượng không muốn nấn ná
lại trò chuyện thêm về những con vịt, chuyện vịt. Chúng tôi đều nhơ nhớp
cả, có gì mà nói. Từ đấy, không bao giờ còn gặp lại.
Cái tội trộn đường vào mì chính của tôi cũng đã lâu, nhạt rồi, quả
nhiên chẳng còn ai biết hay biết cũng thôi, cơ quan lúc nào chẳng có
những thời sự mệt mỏi. Vả lại, tôi vừa đi những ba đợt cải cách ngót hai
năm trở về với cái giấy ghi chức vụ đội phó phụ trách toà án kèm tờ
chứng nhận và giới thiệu đảng viên. Mạnh quá. Thế là tôi đàng hoàng
phổng mũi.
Một hôm, tôi được phòng tổ chức gọi lên. Á à, có thế chứ… Tôi bắt đầu tưởng tượng ra những kiến hiệu của các thứ giấy tờ.
- Đồng chí ngồi.
Sự trịnh trọng lại kèm câu nói cộc lốc hơi lạ khiến tôi hồi hộp.
Tôi ngồi xuống ghế. Quen tay, lấy sổ cộng tác và cái bút mấy “oe rơ vơ”
ra cầm sắn.
- Địa phương có đơn về đồng chí.
- Địa phương nào, việc gì ạ?
- Ở xã cải cách, đơn tố cáo.
Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi nảy đom đóm mắt – Những đêm đi gác, ở
trong lều, đã chung cha với những ai, nằm ngồi thế nào, ai bằng lòng,
ai bị đè ra, ôi chao, ở những bờ tường, những bụi chuối… Đơn lại tố cáo
tôi đảng viên giả có chữ ký của Cự – đội trưởng cải cách. Thế có chết
không, nó cho húp nước đường lại tống theo quả lửa. Bao nhiêu tên ký,
trông hoa lên những Gái, những Nụ, những Má, những Tôm, những… Chẳng
biết trong đám chữ ký tíu tít có Duyên, có Đơm không. Dưới tờ đơn có chữ
ký của đội trưởng, đội phó sửa sai xác nhận và đề nghị kiểm điểm một
đệp những cuộc họp tố cáo các xóm Am, xóm Chuôm, xóm Đìa và cả những xóm
tôi chưa đến bao giờ.
- Ý kiến đồng chí ra sao?
- Tôi… tôi… Tôi không nói được thế nào.
- Thế là đồng chí đã nhận.
- Không, tôi phản đối, tôi…
- Các cấp xác nhận rành rành ra đây, thế là đích xác rồi. Có 10
điều cấm khi đi cải cách, đồng chí đã vi phạm tất cả mà điều 4 nặng
nhất.
Tôi ngồi tây ngây. Những câu dội nước đá, tôi chỉ ấp úng, lắp bắp không ra đầu đuôi.
- Thôi, về.
Chẳng khác đuổi tôi.
Tôi nhìn người trưởng phòng tổ chức, mặt đen gồ ghề, đầu hói. Bên
chân bàn có cái xích buộc chiếc điếu cày. Tôi ngỡ ông là đội sửa sai, về
đây xử tôi, nghiêm quá. Tôi lủi thủi ra.
Hội đồng kỷ luật bắt tôi thôi việc vi phạm lỗi nặng về hủ hoá và
giả mạo giấy tờ. Có thể bị truy tố, những cơ quan chiếu cố. Không lương
hưu, chỉ được lĩnh nốt lương tháng ấy. Tôi chẳng là cái đinh gì, cũng
không biết ai thù tôi, chẳng lẽ lại là cái lão trưởng phòng tổ chức mới
được điều ở đâu về tôi mới biết mặt. Tôi cắm cúi viết đơn gửi lên cục,
lên bộ. Chẳng đâu trả lời. Hồi ấy, tội hủ hoá còn bị coi xấu xa nặng nề
hơn cả việc giả mạo giấy tờ. Tôi bị mất việc.
Trong nhà đâm ra lục đục, ai oán làm sao. Lương tôi và tem phiếu
cũng chẳng đủ nuôi ai, những cũng là một cọc tiền có ngữ. Con trai tôi
đã lên mười. Vợ tôi vốn chân chạy chợ gặp gì vơ nấy. Mua thì cái rau, mớ
chè, có khi ngược tàu Phòng lên, lẩn được cán bộ thuế. Có khi chui
thoát thúng cá, con mực. Ả kiếm ra miếng mới được thêm thắt đồng ra đồng
vào. Bỗng dưng đâm ra hẫng. Lại thêm vợ chồng ở với nhau lâu cũng sinh
nguy, cãi nhau vặt rồi cãi nhau to, rồi đánh nhau cũng thành thói quen
lúc nào không biết, cũng như trông nó cứ bẩn mắt dần mà từ trước kia
không thấy. Cái môi nó trều nhờn nhợt trề ra gớm chết. Cái áo phơi ngoài
dây thép, hai nách thâm xì, lưng áo mồ hôi dầu ăn bạc phếch, sao tởm
thế mà ngày trước không để ý.
Mỗi ngày lại thêm một cái khó chịu. Ăn uống thì bốc bải, hay nói
dối vặt, hình như ngày trước tính nết nó khác. Người này nói, người kia
vặc lại. Um nhà một lúc, hung lên rồi xông vào thụi nhau. Họ cũng chẳng
chịu lép, bớp lại tôi ra trò. Tôi xước mặt, toác cả áo. Tôi không thể
cạy thế thằng đàn ông được. Dạo trước, thỉnh thoảng có lục đục, láng
giềng sang lôi hai bên ra, cũng khi ban hoà giải khối phố đến phân tích
lý lẽ. Rồi đến nữa, vì mới hôm trước hôm sau đã lại loạn lên.
Ngày ngày qua. Những xô xát trong nhà tôi thành trò cười, như hát
hay, hàng phô không ai hơi đâu đến cản ngăn. Từ khi mất việc lại càng
não nùng, khi lại chính tôi là thằng xuống thế.
Tôi chẳng biết một nghề ngỗng gì. Nhưng mà ở đất đô hội, có người
thì sinh ra việc. Cũng như ở rừng trời cho củ mài, củ nâu, ở phố phường
khó khăn mấy rồi cũng tìm ra cái ăn. Đống rác có người bới nhặt. Rồi thì
bó củi, mài dao, móc cống, cái bơm xe đứng ngã ba ngã tư, thêm hòm đồ
và xăm lốp. Phải có cách nào kiếm được thì mới đõ nhục.
Tôi xắm chiếc bơm xe đạp.
Tôi nhảy lên cái cán bơm, mặt cúi vục xuống, không dám nhìn lên.
Lâu lâu, đã quen tôi khoan thai ấn cái bơm, trong bụng yên yên một chút.
Máy bay Mỹ ném bom liên miên. Giữa thành phố bom bị rắc hàng thúng
vào chỗ cây đa đền Bà Kiệu, rơi lõm bõm xuống hồ Gươm. Người ta lũ lượt
chạy khỏi thành phố. Càng nhiều người đi xa, phải bơm xe cho căng, tôi
vẫn đứng với cái bơm ở ngã năm. Vợ tôi đem thằng còn chạy bom, đi đâu
tôi cũng không hỏi. Đêm trước vừa to tiếng, tôi bóp cổ mụ đến lúc kêu
ằng ặc tôi mới nới tay, rồi lại đánh nhau tiếp mặc kệ còi báo động với
máy bay ầm ừ trên trời. Sớm hôm sau, mụ đi thẳng.
Từ đấy, không còn tăm hơi hai mẹ con. Đầu tiên, tôi cũng tưởng mụ
chỉ dỗi bo bo lăng nhăng rồi lại đâu vào đấy như mọi khi. Nhưng rồi bặt
hẳn. Tôi sốt ruột, nhưng cũng không biết thế nào biết hỏi ai. Hàng phố
xì xào. Cô ấy đã theo người ta xuống Nam Định, tôi trông thấy ở Chợ
Rồng… Cô ấy trốn vào Nam rồi. Có người lại nói như thật: có ấy số đỏ như
tiên rồi, xin được chân phụ bếp ở cục phục vụ được sang nấu bếp ở nhà
khách sứ quán ta bên Liên Xô. Những cũng chỉ là nghe nói, chẳng thấy tăm
hơi đâu. Thế rồi đến năm đất nước thống nhất cũng vẫn bằn bặt thế. Có
lúc nghĩ hay là vướng bom đạn chết đủ đường chết chợ rồi. Trong chiến
tranh, biết bao nhiêu người mất tin, mất tích, không phải riêng mẹ con
nhà nó.
Tôi ở gian nhà ọp ẹp ấy và vẫn một mình với cái bơm xe. Hiu quạnh,
có lúc cũng nhớ cái khi tung hoành ở xóm Am, xóm Chuôm nhưng chỉ nghĩ
đến đã xấu hổ, còn ra cái thá gì mà vác mặt về. Lưỡi dao cạo hiếm mà
đắt, tôi chẳng buồn cạo, mặc kệ. Râu ria tóc tai bù xù như con gấu vườn
Bách Thảo. Tôi cảm thấy mau lão quá, ngoài năm mươi mà lụ khụ, nói nói
thở thở. Tôi đo sức bằng mỗi lần bơm xe. Năm trước chỉ ấn một cái được
một nhát bơm, bây giờ phải nhảy trẹo mông mấy lần, buổi chiều thì móp
bụng lại, đến bốn phát mới xuống được một nhát. Tối về lử lả, xiêu vẹo,
xách cái bơm cũng trĩu tay, mặc dầu tôi tịnh không chè thuốc, bia rượu.
Cái già xốc đến tận đít rồi. Đàn bà con gái dửng dưng qua mắt tôi và tôi
cũng nhìn người ta thờ ơ như nhác mắt qua đường.
Một hôm, tôi nhận được giấy bưu điện báo nhận hàng. Lật xem đi xem
lại: bưu cục Bờ Hồ báo lần thứ nhất – tôi đi hỏi người ta bảo giấy này
gửi từ bên nước Úc. Tôi bỏ một buổi làm, lên hiệu sách xem nhờ tờ bản đồ
treo bán tìm nước Úc ở đâu. Đêm mất ngủ, hay là bưu điện nhầm. Tôi lại
mở giấy xem lại, rõ rằng viết số nhà cái buồng cái lều này và cả ba bốn
bên đường phố hàng xóm bảo năm này chỉ có một Nguyễn Văn Bối tôi.
Tôi lên nhà bưu điện. Người ta cho biết hàng nước ngoài gửi về phải
có sổ nhận hàng trên thành phố cấp. Tôi bảo tôi không biết về hỏi hàng
gì. Có nhân viên chỉ cho tôi trong ngăn tủ bề bộn, một hộp giấy vuông
vắn: “Đây, hôm nào đủ giấy tờ, hải quan cho mở ra mới biết hàng gì, bác ạ
“.
Rồi tôi cũng lo được từ khối dân phố lên khu, lên thành phố cho có
nổi một tờ giấy sổ lĩnh hàng nước ngoài. Tiền mua các thứ phí tổn bạc
nghìn. Đến nơi lại bảo nộp phạt tiền lưu kho mất hai nghìn rưỡi. Nặng
quá, tôi đã nghĩ toan bỏ. Nhưng đằng nào cũng đâm lao rồi, tôi lại về
cào cấu, cả giật nóng, cả vay lãi ngày. Cũng có lúc chợt hoảng. Nhỡ một
cái lại là cái hộp cứt như trong truyện Trạng Quỳnh thì có mà toi đời.
Nhưng không, một gói những lọ, những hộp xinh xinh. Người hải quan xem
từng lọ rồi bảo đây là thuốc bổ, được phép nhận.
Tôi ôm cái hộp lên ngực mới gạt được đám người bám ngoài cửa, nhao nhao:
- Thuốc à? Có bán không. Bao nhiêu? Xem nào, xem nào…
Tôi đứng bơm hàng ngày một cụm ngã năm ấy, có người bơm xe lại đã
thành quen biết, một vài phút đợi bơm, đã ra khối chuyện phố phường. Chỉ
hôm sau, tôi đã hỏi biết được toàn thuốc vitamin A, B, C, B6. Thuốc
Pháp, thuốc Mỹ, đắt đấy, bán được tiền. Tôi hỏi mỗi người một tý, chắp
lại, đã ước lượng được giá cả. Thế là không dưng trời cho tôi của.
Ai ở nước Úc gửi cho tôi? Không có thư, không tên người gửi. Hàng
chữ tên tôi, số nhà, phố thì đánh máy. Người ta bảo ở các nước văn minh,
ra hiệu xe đạp, mua cái xe rồi lại thuê gửi, thế là cửa hiệu cứ việc
đóng gói và gửi đi, người mua không phải động tay, không cần biết mặt
cái xe. Nhưng ai gửi, lục soát đến đâu cũng không ra ai. Không một cớ
nào để đoán nổi. Cuối cùng, trong ý nghĩ tôi đọng lại hai con vợ mất
tích kia, mà có lần người ta đồn nó đã đi những nước nào nước nào sướng
hơn tiên. Có lẽ là mụ ta. Lúc khó nhất người ta cũng nghĩ rồi ra có lúc
được mở mặt, hay là nó, chỉ có nó mới biết tên tôi, số nhà tôi, mà xét
những mối quen biết thì quanh đây cả, chỉ bọn khố dây, ai mà có được hộp
sang này! Đích là nó rồi. Chỉ có con vợ trước ở Tam Mai thấy bảo lấy
chống, làm cut-lít có thể nó về bên Tây bên Mỹ, Nhưng con ấy lại không
biết chỗ tôi ở bây giờ. Thế thì ai gửi cho tôi, lại rồi ruột thêm. Tôi
có hai vợ, hai đứa con thật sự còn con rơi con vãi ở đâu không kể. Chẳng
nhẽ con vợ nào của tôi đã sa chân xuống tận vũng bùn tư sản lại còn hơi
sức nhớ đến tôi. Hay là…
Hay là cái này của địch, là âm mưu địch, thằng địch chúa thằn lằn
nham hiểm đi cải cách ruộng đất đã thấy đấy. Tôi mất mũ cán bộ đã lâu,
mà vẫn chưa quên cách phân tích địch ta. Thế nhưng ở trên đời này, thằng
địch ba đầu sáu tay nào mà lại biết tên tôi là quân tố hửu Nguyễn Văn
Bối. Ông bơm xe, ông bán nước, quanh năm không nhìn ra ngoài cái bơm,
cái chén, nhưng thoáng mắt đã nghe biết cái khôn dại của bao nhiêu người
đời. Nghe nói có nhà có người ở nước ngoài gửi các thứ về cho nhà bạn
để ăn, để sướng, tôi cũng đương được “tiếp tế” như thế, chứ có phải địch
mua chuộc đâu.
Bao năm nay, trời nắng hay trời mưa, tôi chỉ có cái bơm và lê la
quanh mấy gánh cơm dưa cà đậu om, canh đậu, có cái ghế treo trôn, quang
khách đến bà hàng mới bỏ ghế ra, sợ ngồi xúm xít thì công an đuổi.
Số thuốc tôi bán dần. Ôi, những chi tiêu thăng hoa khỏi mụ hàng cơm
gánh. Tôi xuống chợ trời mua bộ quần áo ka ki đại cán cũ. Mới ngày nào,
cán bộ thủ trưởng và nhân viên mặc đại cán như nhau, bây giờ có tiền
hoạ hoằn mới có người mặc, anh xe ba gác, xe xích-lô… Dù qua mặt cũng
không ai nhìn, việc đời cái gì rồi cũng trôi đi. Đời cán bộ của tôi đã
chấm dứt từ bộ đại cán sang cái bơm, tôi vẫn thấy mặc đại cán được và
hợp mắt. Chập tối, tôi không đến gánh cơm quán đầu ghế nào. Đã lâu, mới
nhớ phải hưởng một bữa có chất. Cuối phố kia mà tôi vẫn biết ở đấy có
một hiệu ngoài tủ kính bày mấy lọ mắm tôm bán sỉ, nhưng trong nhà làm
chui cơm tắm giò chả. Tôi đi đánh chén một bữa cật lực, bội thực không
thở được, chỉ còn sức bửa say được về nhà, lăn đùng ra.
Tôi nhét cái bơm vào gầm giừơng. Nghỉ ít lâu cho khuây khoả cơn sầu
đã nào. Nhưng vài ba tháng nằm khàn, ăn vỗ béo rồi ngủ, gói tiền to đến
bằng cái tải gạo cũng phải toang ngoảng. Rồi hết tiền, lại vác cái bơm
ra ngã năm. Tôi chép miệng. “Tiền bắt được như tiền cờ bạc, của phù vân
vẫn vào nhà rồi của phù vân lại đội nón ra đi, thế thôi”. Tôi thở dài,
tự an ủi.
Tôi khắc khoải vu vơ mong lại nhận được giấy báo nhà bưu điện. Tôi
tính ngày, so sánh năm tháng, đoán có lẽ vào dịp Tết ấy ra. Rồi mấy Tết
cũng chẳng thấy đâu. Cái gói tiền đã xa như chiêm bao từ ngày xưa, Tôi
lại cắm cúi, vật vã nhảy nhấp nhô cỡi lên cái bơm.
Nhưng quái sao, tôi thở dốc: Tôi béo tốt hẳn hoi, râu mọc um tùm
đem mỡ ra. Thế mà hai cánh tay rã rời muốn vập mặt xuống cái bơm rỉ. Tôi
không bơm xe được nữa. Tôi đẫy đà ra nhưng tôi kiệt sức rồi. Cái túi
tiền đã giết tôi.
Hôm sau, tôi lại vác cái bơm ra. Nhưng cả buổi chẳng được một nhát.
Khách quen không có ai. Người lạ trông thấy tôi mặc cái áo đại cán, mặt
mắt húp híp, người ta đạp xe thẳng. Rồi tôi cũng được khách, nhưng vừa
buông buông cái bơm, tôi nghẹn cổ không thở được. Ông khách đùa: “Ông
béo sung sướng phát phì thế thì đi nghỉ mát, chứ bơm xe là ốm đấy”.
Tôi chết thôi. Cái thằng Vách, thằng Vách chết như đi chơi, lại còn
gọi người đến xem nó chết. Thế mà hay. Lẽ nào tôi hèn không bằng thằng
Vách. Tôi chết cũng vừa, đủ mùi đời rồi.
Tôi ngồi dậy. Tôi với tay vào góc buồng kéo cái hòm gỗ. Trong ấy,
mọi thứ đều được nhặt trữ lại. Người khó nhặt nhạnh chẳng muốn vứt đi
cái gì. Tôi tìm cái quần rách. Tôi bện thành cái thừng. Tôi chợt thấy
vẫn còn chiếc ruột tượng đựng gạo ở cơ quan trên Thái Nguyên. Mỗi lần ra
khỏi rừng đi công tác ai cũng đeo vắt vai một hai bao gạo. Ôi, cái ruột
tượng đựng gạo còn lại đến bây giờ, được được đấy.
Tôi đứng lên mặt bàn, buộc một đầu ruột tượng lên xà nhà, ở bên kia
thõng xuống, thắt nút tròng lọng lại. Tôi ngắm nghía. Chui vào, đạp đổ
cái bàn dưới chân thì tôi bằng thằng Vách.
Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Không phải tôi ngần ngừ mà tôi mỏi như
sắp chết, tôi ngồi thế này chắc một lúc nữa tôi cũng chết. Không phải.
Tôi nhớ ra tôi sắp lả đi vì đói. Thế thì đi ăn cái gì, chẳng nên làm còn
ma đói.
Chiếc tròng lọng ruột tượng trắng nhờ như giải khăn tang lơ lửng giữa nhà. Tôi khoá cửa, bước ra.
Lại biết chỗ ấy có quán cơm mà mật hiệu là cánh cửa đóng một bên.
Mở mảnh ni lông che tường ra, tròng treo cỗ lòng tráng, cái cổ hũ trắng
phau, có phở, có cháo lòng, tiết canh đủ thứ. Thành phố tiêu điều không
phải vì chốc chốc lại báo động máy bay. Bề ngoài thôi, người ta ở trong
nhà mà vẫn hàng phở, bánh cuốn, bánh giò, rượu cuốc lủi được gọi nhẹ
nhàng là nước mưa…
Vừa đi vừa nghĩ những cái ăn, như người thành phố bom đạn đương
thiếu đói, thì chết làm sao được. Tôi cũng tự mang máng thế. Tôi lử khử,
dật dờ đi. Dẫy phố im ỉm. Thế mà cái quán này đèn sáng. Ngọn điện che
mảnh bìa cứng, bớt sáng hắt ra, theo lệnh phòng không. Tôi bước qua chỗ
của tôi vào sáng đèn, tôi choáng người. Lão chủ quán cái mặt hệt thằng
địa tư Nhỡ. Chỉ khác bộ râu quai nón trắng như cước, tóc và râu dài
xuống giữa lưng, giữa ngực. Tôi hốt nhiên phấp phỏng. Hay là tôi đã thắt
cổ tôi chết rồi, tôi gặp hồn thằng tư Nhỡ ở cửa địa ngục suối vàng.
Chủ quán nhác nhìn tôi, hỏi ngay:
- Anh đội Bối phải không? Cũng râu ria như thằng địa chủ à?
- Ông… tư Nhỡ.
- Nhớ dai đấy. Anh ngồi chơi.
- Bây giờ ông…
- Thế thôi. Ồ lâu lắm mới gặp. Đánh chén cái đã. Không phải ăn nhà
hàng, mà tôi thết ông. Dám chứ? Tôi vẫn ơn ông không qui tôi là địa;
nhưng ông vượt mặt thế nào được thằng đội Cự, có phải không ạ?
Toàn việc người sống. Tôi còn biết nói thế nào. Cái anh đội Bối
cũng xa xôi hoá thành thằng bơm xe rồi. Những kiểu cách ta đây cán bộ ra
về hiểu biết, đứng nói hấm hứ băm băm tay, tôi chẳng còn đâu điệu bộ dở
dang ấy nữa. Quên rồi, cả như chuyện Âm Phủ. Tôi không ngại, cũng chẳng
ngượng với tư Nhỡ. Dường như lại quen ngay. Ai cũng chỉ ưa nhớ lâu
những cái dễ chịu. Rồi vừa nhớ lại, vừa không muốn nhớ, như mê ngủ. Bây
giờ rõ rằng tư Nhỡ mời tôi đánh chán. Ừ, đánh chén. Thằng bơm xe đạp
nhặt từng hào giấy thì chỉ thèm đánh chén.
- Vào, vào uống chén nước đã.
Nhà tư Nhõ hai buồng, liền phòng trong, cái bếp đã được dênh ra ngay đầu gian bán hàng, đây chỗ ngủ kê vừa chiếc giường một.
Trên mành mành che, buộc cái mạt to sơn kẻ đòng chữ xanh tròn quanh
theo khung: Hutte cent ans kèm chữ quốc ngữ hắc ín đen nhánh “Lều trăm
năm”.
“Vẫn cái “động trăm năm “, ông ạ.
Tôi pha trò:
- Có còn tay cán nữa đâu
Tư Nhỡ vuốt râu cười:
- Vẫn còn công an, cán bộ thuế mà mình là thằng bán hàng chui. Cái
lều ông già trăm năm này có giá trị trình bày lắm. Tôi lão rồi, tôi ốm
yếu sắp chết rồi, tôi kiếm ăn cò con, các ông tha cho. Ít người biết chữ
Tây nên phải viết kèm chữ ta cho các anh ấy để hiểu để thông cảm. Chỉ
có bây giờ mà đội bắt tôi thì tôi chịu chết, không còn sức leo tường nhà
giam. Nhưng cũng chẳng cần. Mấy chục năm từ ở cái “động trăm năm” này
tôi đã luyện đắc đạo phép tiên.
Tư Nhỡ miết ngón tay cái vào ngón tay trỏ, giơ cao bật tanh tách
rồi cười khơ khớ: Phép tiên Xìn! Xin tiền! Tiến! Tôi bây giờ tên là
thằng Xìn.
Tôi lờ đờ vẻ không biết, hững hờ hỏi:
- Ông có hay về Am không?
- Tôi biệt xứ từ ngày ấy. Vợ tôi chết tôi cũng chôn ở Văn điển.
Không biết dưới ấy vào hợp tác rồi có cao bằng cả làng thành một hố
không, còn tôi đã từ làng, từ họ rồi. Họ hàng mà đấu nhau đến thế, còn
mặt mũi nào. Nhưng mà có phúc có phận cả, nhờ các anh về làm tan hoang
lên thế, thằng tư Nhỡ có suýt chết mới lại được thế này. Mấy lỵ tôi mà
thò đầu về, đứa nào dò được tông tích tôi trên đây, có khi tôi lại ăn
đất, anh ạ. Chốc nữa anh lên công ăn khu báo cáo có thằng địa trốn lên
đây đội lốt công thương thì tôi cũng rũ tù Hoả Lò ngay. Nhưng mà anh đã
thương tôi, nỡ nào, phải không. À mà tôi cũng thay tên đổi họ rồi. Bây
giờ họ tên tôi là Tạ Xìn, Tạ Xìn. Tiếng Tầu “xìn” là tiền, “Tạ xìn” là
một tạ tiền, tôi thờ than tiền. Khi nhỏ, tôi hay chơi chữ, đã “lều trăm
năm” lại hoá ra “tạ tiền”. Tạ Xìn bán phở ngầu pín dái bò dái dê, lại cả
phở không người lái. Bánh phở Tạ Xìn đương có tiếng đấy.
Lão nói toang toang gay gắt một cách từ tốn. Ở đời không rõ đầu
lưỡi hay trong bụng, tôi thấy ai cũng tự tin hơn tôi, tôi cũng đâm ra
rúm ró. Tôi mờ mờ những sóng gió thôn Am, thôn Chuôm. Tôi có cảm tưởng
tư Nhỡ đương là thằng Tề Thiên Đại Thánh đánh cả trời mà tôi như con
nhái đứng dưới đất giương mắt chẫu, mắt nhái, mõm nhìn lên.
Tôi nhấm nháp chén chè Tân Cương pha bằng nước đun ở cái ấm điện tý
hon chỉ vừa vài chén hạt mít. Một lát, thấy một đứa con gái bưng một
mâm vào. Trên mâm, hai bát chậu đựng những cánh xương sườn lợn cong lên
như cọc bờ rào, khói béo nống bốc nghi ngút. Xương ninh làm nước phở,
ngon nhất. “Bán phở mà tôi cấm có ăn phở. Tôi không thích mâm bát lôi
thôi. Tôi chỉ nhắm rượu, gặm xương. Ông chiều tôi”.
Tư Nhỡ lại nói, giới thiệu:
- Cái này là út của tôi. Nó làm mậu dịch, nó là cô mậu bán thịt cho
nên bố nó mới được cái khoái này. Bây giờ là nhất nhà mậu, nhà mậu được
cái chén ngay, rồi mới đến nhì thân, ba thế.
Lúc này nhìn đứa con gái tôi ngỡ con bé con, bây giờ mới nhận ra cô
mậu dịch áo vét xanh da trời, hai bím tóc tết buông xuống lưng, đội dép
râu, tôi đâm sợ. Ai mà chẳng sợ những cô mậu cong cớn, cô ném ra bán
như thí cho bó rau nào thì được nhặt bó ấy.
Tôi uống rượu chẳng mấy. Tư Nhỡ thì vén râu tì tì từng chén. Tôi
nhấm nháp theo cũng hào hứng dần lên và thế là nhãng mất cả chuyện thắt
cổ. Đấy, tôi ví thế nào, tôi hèn, tôi bằng thế nào được thằng đồ tể Vách
kia, tôi mới chỉ gặm miếng xương mà đã…
- Ông tư ơi, ông được mấy người giỏi như có mậu này?
- Mỗi đứa một phân, không đứa nào giống đứa nào.
- À…
- Chẳng giấu ông, nhà tôi có hai thằng xuất ngoại, một ở Liên Xô, một ở Hung.
- Hai đứa đi nước ngoài? Luật chỉ được một thôi mà.
- Đã bảo tên tôi là Xìn, tôi là Tạ Xìn, giới thiệu mãi rồi.
- A.
Thế mà tôi lại nhờ cái thơ ném lại cho “cậu mợ và các em Hương,
Hiền, Vinh, Phú, Quý” của đứa nào ngày ấy bỏ nhà đi. Không biết nó là
đứa nào trong đám con Tư Nhỡ.
Tư Nhỡ lại nói:
- Một thằng đi bộ đội, chốc nữa về.
Tôi đáp giữ nhịp:
- Thế à?
- Cũng cho một đứa đi bộ đội cho phải phép. Bộ đội thời đánh Mỹ mà
được ngủ nhà, thế mới chúa. Cái đấy phải chạy mệt hơn lo cho những thằng
đi nước ngoài.
Từ lúc ngồi ở cái giường trong “Lều trăm năm” ở thành phố này mỗi
lúc tôi lại rạp người xuống, tôi lạy phục tư Nhỡ, rồi chúi đầu ăn như ma
đói. Chẳng mấy lúc say đứ, nằm đờ ra. Cái thân tôi ăn cũng khổ, lúc nào
cũng sắp chết vì bội thực. Tỉnh lại, thấy tư Nhỡ ngồi nguyên thế, đầu
gối rung bành bạch, chốc lại vạch râu tiếp một ngụm.
- Thức rồi à? Làm bát không người lái. Phở nóng, nhiều hành, tỉnh ngay.
- Tôi về…
Về làm gì. Trời mát, tao với ông nằm cái giường này vừa mà nhà mày thì như cái ổ chó!
- Ông biết nhà tôi?
- Tao biết cả mày đứng bơm xe đạp ở ngã năm, biết lâu rồi.
Chưa húp bát phở nóng mà tôi tỉnh tức khắc. Tôi bơm xe đã thành tật
cứ lúi húi vặn vặn, lắp vòi, lúc nào cũng rũ mặt xuống hai tay ấn bơm,
chứ mấy khi nhìn ai.
- Về đây làm với tao.
Tư Nhỡ đứng dậy chếnh choáng vịn tay vào tường.
- Ấy cái tội của các ông cải cách đây. Thằng tư Nhỡ tụt tường nhà giam trốn ra, què một chân.
Bắt chợt, tư Nhỡ hét:
- Bối! Thằng đội Bối!
Tôi trố mắt, ngơ ngác.
- Kìa “dạ” đi, lậy ông địa đi. Tao đương bắt chước các ông đội đây.
Như mà làm trò chèo tuồng cải lương thế thôi, tao không báo ân báo oán
như cái con Thuý Kiều giang há nhà thổ đâu.
Mỗi việc, mỗi câu của tư Nhỡ như đấm vào mặt, vào bụng, vào lưng, tôi chỉ biết oằn người ra chịu đòn.
—Nhà nước chỉ cho ăn vã bo bo, bột mì rán khan, cái bánh phở là
quốc cấm, phải chạy nhiều cửa mới có chén rượu, có miếng xương này. Mai
đến đây, khối việc. Mày không ra sao cả.
Tôi thì không ra sao từ lâu lắm rồi. Cái vốc tiền dạo trước cũng
chỉ nuốt hết chứ có nên trò trống gì đâu. Nghe nói thế tôi coi như ông
chủ đang mặc cả công. Được thì gật, không thì lắc, chẳng còn biết đỏ
mặt. Nghe nó nói cũng thuận, có khi mà hay, đỡ nắng gió, khỏi phải há
mồm nhảy bơm, mà cái của trời ơi của tư sản giẫy chết kia thì biết bao
giờ nó còn rơi xuống nữa. Tôi gật gù, lóng ngóng.
Tư Nhỡ đập bốp bàn tay bên kia vào tay tôi.
- Mai đến nhé.
Tôi bước len lét, lử khử, râu ria lướp tướp như con chó ốm. Mở cửa
trông thấy cái tròng lọng ruột tượng lơ lửng giữa nhà. Tôi mới nhớ lại.
Tôi cúi xuống, vứt lại vào cái hòm rác rưởi. Quên ngay, tưởng như chưa
khi nào đã định chết thắt cổ.
Tôi ngủ say như chết. Hôm sau, tôi cưỡi cái bơm, mỏi nhức lên đến
cánh tay. Thật không thể trông vào cái bơm được nữa rồi. Cái bọc tiền đã
giết tôi. Nhớ đến những câu chuyện với tư Nhỡ lại càng đau ê ẩm.
Một buổi sáng, tôi đến nhà tư Nhỡ.
Tư Nhỡ cười, vỗ vai tôi.
- Biết anh còn nghĩ đi nghĩ lại mấy hôm mà. Cũng sĩ diện chứ, nhưng mà cái bơm chỉ bằng cái tăm hương ấy mà nặng đấy.
Tôi bắt đầu làm một công việc kỳ quái mà dễ hiểu. Không phải phụ
bếp, không lau bàn, bưng bê, không rửa bát hay giết gà, mổ lợn – thịt gà
và từng súc thịt lợn sống đã có cái cô út làm nhà mậu mỗi buổi đèo trộm
về một túi ni lông rồi.
Tôi đi lấy bánh phở. Hồi ấy, cả thành phố trông vào tem phiếu gạo.
Bánh trái, chè cháo hàng quán đều dùng đến gạo, bột gạo đều bị cấm,
nhưng người ta vẫn chui lủi, thế nào cũng có cách nhoi ra. Mỗi ngày hai
buổi đúng giờ như người đi làm cơ quan, tôi vác một bị bánh phở nặng
lệch vai về.
Tư Nhỡ dặn:
- Chỗ lấy bánh này nghiêm lắm. Anh có bộ đại cán hay đấy, dễ vào.
Những cấm nói, không được nhìn ngang nhìn ngửa. Đêm bánh về đến đây, gặp
“cá” thì bảo là giữa đường người ta nhờ bán hộ. Rồi tôi gỡ cho, không
được đổ cho tôi.
Mấy lâu này lặn ngụp trong chợ đời, tôi đã hiểu giữa đường ngoài hè
còn biết bao những ma quái bằng bậc cụ, những mưu mô và những đòn đánh ở
cơ quan tôi ngày trước.
Tôi đến một toà nhà hai tầng có vườn bao quanh ở một phố tĩnh mịch.
Các cửa sổ gác đóng kín chắc là nhà cán bộ to. Tuy to, những chưa phải
cỡ có bốt gác cửa.
Tôi đi thẳng vào vườn sau. Bên cái nhà ga ra ô tô có một buồng lửng
ngay đầu cầu thang xuống. Trong buồng, một cái nồi ba mươi, bột đương
nghi ngút sôi sùng sục. Mấy người xoay trần, tráng bánh cạnh cái công tơ
điện xình xịch chạy máy.
Một người đứng tuổi mặt mũi nhẵn nhụi mặc áo đại cán, ka ki hồng
nhạt. Trông thấy tôi, ông bước ra, bắt tay – lại bắt tay, chưa quen đã
bắt tay lu bù. Ông ấy bỏ kính trắng, – tôi ngờ là kính giả, ông trỏ tay:
- Cái bọc to nhất đi ngoài cũng là của anh – Người ấy cúi nhìn đồng
hồ đeo tay, – Lúc nào ô tô ra đỗ cho kia thì anh vác bọc này đến, lên
ngồi ghế trên. Chỗ nào ô tô dừng lại, chú lái mở cửa cho anh xuống.
Không được quay lại nhìn, không phải chào hỏi ai cả. Nhớ chưa? Không thì
mất lương đấy!
Tôi đã nhớ từ lúc tư Nhỡ dặn, nên cũng chẳng buồn trả lời. Nháy
mắt, cái xe đen bóng lừ chui ra, cửa kính sau và hai bên khoang dưới
treo miếng vải hoa sặc sỡ như bướm đậu. Người lái xe mở cửa trên, tôi bê
bọc bánh bước lên, mắt nhìn thẳng đằng trước. Nghe tiếng người bước lên
đằng sau rồi sập cửa. Xe lướt ra cổng loang loáng. Nhớ những lần đi cải
cách ở Thanh Hoá, ở Thái Bình, hội nghị tổng kết ở Hậu Hiền, ở Quỳnh
Côi có cán bộ trên về dự cũng đi những xe đen kềnh càng choáng lộn như
thế này. Các ông ấy toàn mặc áo nâu, đi dép râu, không biết ông ngồi sau
tôi mặc áo nâu hay đại cán. Đương nghĩ loăng quăng, cái xe đã đỗ êm
nhẹ. Người lái xe với tay sang mở của. Tôi lùi lũi ôm bọc bánh xuống.
Chiếc xe lại bon vút đi. Đây là ngã ba, rẽ vào một quãng thì đến nhà Tư
Nhỡ.
Mỗi ngày hai chuyến đi lấy bánh như thế, kể cũng nhàn. Được muơi
hôm, dần dần tôi biết mọi lai lịch những bị bánh tôi lấy về và những túi
thịt lợn, mỡ lợn, sườn lợn của cô ả mậu. Tư Nhỡ lại tự vác đi bán các
nơi khác. Thảo nào, lão bảo bánh phở Tạ Xìn có tiếng là ý tứ thế và cái
hàng vắng, lão cũng chẳng cần.
Tôi lại biết bọn làm bánh không phải người nhà này, cũng không phải
nhân viên cơ quan. Có manh mối, người ta đến xin làm đây. Mọi công
chuyện và tiền nong tính toán với bà chủ. Làm bánh trong nhà hộ đặc
biệt, các ông “cá” đánh hơi được cũng chịu. Lại cái ô tô thủ trưởng ngày
ngày tải bánh ra, chẳng dám đụng đến.
Cái ông chủ lò bánh mặc áo đại cán, kính trắng, cái cặp da như
chánh văn phòng ngày nào cũng đến xin ý kiến thủ trưởng, ông chuyện với
tôi, ông tặc lưỡi:
- Cả làng đều phải kiếm thêm, cán bộ nào chẳng như nhà ông này.
Cái giọng hệt Tư Nhỡ, đủng đỉnh, móc máy, xỏ lá. Hay cũng là địa trốn lên thành phố, bây giờ tên là Xìn, là Tiền. Ai biết được.
Tôi đến lấy bánh chui ở nhà ông cán bộ to nọ, tôi lại tìm được cách
nghĩ cho yên lòng hơn về sự an bài của xã hội bây giờ. Tình cờ tôi được
tin cái lão trưởng phòng tổ chức đã sa thải tôi ngay trước, lão bị đi
tù rồi. Ông “chánh văn phòng tên là Xìn” ấy một hôm đọc báo rồi kể lại
cho đám xay bột, tôi đứng nghe đích xác tên người, tên cơ quan tôi
trước. Nguyên do là lão ta sắp về hưu. Lão mưu với thủ kho làm một quắn
lấy trộm hoá chất.
Sau khi tuyên án, lão được nói một câu “Lậy toà, một đời con công
tác – toà án không cho lậy, không cho xưng con, những lão cứ nói thế,
con không ăn cắp một tờ giấy, một ngòi bút. Nhưng con sắp phải được nghỉ
hưu, con cần kiếm cái dưỡng già, con chỉ kiếm đồng tiền dưỡng già. Xin
toà rủ lòng thương”. Lão ấy sáu mươi ba tuổi. Thì tôi lại ngậm ngùi nông
nỗi đời người. Tôi lại quên cái lão trưởng phòng mặt sắt ngày trước. Ai
chả thế, cố cùng mới chịu đói, ai chẳng thèm no.
Tối tối, tôi ngồi hầu rượu tư Nhỡ. Quan hệ của tôi với lão cứ nửa
nạc nửa mỡ. Không ra chủ cũng chưa hẳn đầy tớ. Tôi không còn nhớ mấy về
địa chủ tư Nhỡ ở thôn Am. Nhưng lão nhớ ác, thỉnh thoảng vẫn móc tôi vài
cú.
- Cái đài Oreông này của tôi khoẻ lắm, nghe được Sài Gòn, cả đài
Mỹ, đài Anh. Bây giờ tôi mới là Việt gian toàn nghe đài địch. Cái thằng
đội Cự dốt đặc cán mai như con bò, cái galen kêu ẹc ẹc bắt dây lên cột
tre lại bảo là dây điện đài đánh đi liên lạc với địch.
Tôi im, nhai thong thả.
Bát xương sườn lợn bốc khói mỡ béo ngậy. Tôi phải làm bát phở không
người lái đã rồi mới uống – cũng giữ ý, kẻo lại kềnh ra như hôm nào.
Tôi đảo mắt nhìn tư Nhỡ. Lão vẫn đương ừng ực mấy chén cũng như lúc
đứng bán phở, lúc đeo túi bánh túi thịt đi, lão nói lão làm phăm phăm,
hống hách, máu nhà địa chủ và lão đương làm ông chủ, còn thằng Bối thì
hủm hoẳn như con thằn lằn cụt đuôi. Tôi đã làm xong bát phở không mà từ
khi tời thành phố hay có máy bay không người lái của Mỹ vào thám thính,
bát phở không thịt cũng thành cái tên “phở không người lái”, chẳng ra
cợt chẳng ra mỉa nó hay mỉa ta. Tôi nhấc chai, rót lấy chén rượu. Tôi
cũng đương làm ra tiền cho nhà này mà.
Tư Nhỡ bỗng đứng hỏi:
- Này cái thằng đội cải cách tên là thằng Cu, thằng Cự gì nhỉ?
- Thằng Cự.
- Ừ, Cự. Nghe cái tên con hốt đến tận giờ. Đêm hôm qua cái đài Sài
Gòn nói có hai thằng đại tá Hà, đại tá Cự người bên ta mới chạy sang nó,
hai thằng đi họp chống cộng châu á ở Đài Loan về.
- Cái thằng Cự ấy hả?
Tôi lơ đãng
- Nào biết được!
Tư Nhỡ cười hê hê:
- Anh chỉ còn chúi mũi xuống cái bơm, chẳng biết con khẹc gì cả.
Nói thế chứ tôi có biết đâu thằng Cu, thằng Cự. Chả là tôi mê cái giọng
con Hà Thanh rồi con Hoàng Oanh đài Sài Gòn, chúng nó hát cho tê tái
lòng người đến như thế mới là hát chứ. Đến giờ đây, đi tìm luồng Sài
Gòn… Mà đài nó nói đêm nay các thằng ấy họp báo. Anh nghe xem có phải
không?
Tôi lẳng lặng thong thả nhấm nháp mảnh xương sườn lợn. Thằng Cư,,
thằng Cụ xa lắc chẳng bận đâu đến tôi. Chiếc Oreon trên đầu giừơng tư
Nhỡ đã lên nước ám khói màu vàng nhợt. Cái nút quay ọ ẹ ró ráy như chuột
chạy. Tay tôi nhờn mỡ, Tư Nhỡ phải làm lấy. Tư Nhỡ áp tai nghe rồi rối
rít: đấy, đấy… Cúi xuống… này… này… Tư Nhỡ đứng dậy ra cài then cửa. Tôi
hờ hững ghé tai vào mặt đài.
Tiếng người đương nói:
… thưa đòm bào, chúng tôi đại tá Tam Ha, đại tá Huỳnh Cự… ngày… Đại
hội chống cộng toàn châu á ở Đài Bắc về. Thưa đòm bào, tôi xin báo cáo…
Tôi nhỏm lên, nhớn nhác:
- Đúng Huỳnh Cự…
Tư Nhỡ kêu, rồi chửi một câu:
- Ối giời ơi! Đéo mẹ thằng chó đái!
Tôi còn đương ngổn ngang những thằng Đình, thằng Cự ngày nào chưa nghĩ thấu sự đời lộn phộc quái ác này. Tư Nhỡ choang choác:
- Bên ta có hai thằng chó ra hàng. No cơm ấm cật thì ở bên ta nó
cũng sướng chán. Đâu không biết chứ dạo ấy, rễ chuối ngày nào chả lên
chợ mua rượu thịt về cho thằng đội Cự. Anh sai con Duyên; con Đơm ấy đi
mua cái bánh ngô, bánh dầy. Người ta đếm đấy, cả hàng huyện biết chứ.
Thế ra nó vào B, nó lại mò ra chỗ ăn chơi, trâu đi tìm trâu đấy, các cụ
nói không sai. Mà ai chả thích sướng. Bây giờ tôi sướng hơn ông, nhưng
đã ra quái gì, bán cái bánh phở mà như thằng kẻ trộm.
Tôi lủi về, tư Nhỡ vẫn lảm nhảm huyên thuyên một mình đến tận lúc
nào. Tôi nằm xuống giường rồi vẫn vang tiếng thằng Cự với những câu chửi
rủa của Tư Nhỡ. Đúng nó, đòm bào, đòm bào. lại nhớ như mới họp, mới mít
tinh hôm qua. Nó leo lên cao thế thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên. Những
mưu mẹo, những trắng trợn khủng khiếp. Nhưng thế rồi mà lại chạy. Nó
muốn lên tận đâu nữa? Tôi nghĩ tôi vẫn hơi hướng máu cán bộ, tôi phân
tích.
Rồi tôi lại tơ tưởng đến những hộp đựng thuốc bên Úc gửi về. Ừ làm
người ở đời ai chả muốn sung sướng, câu ấy rõ chẻ hoe, khác cái thằng
tôi bơm xe, thằng tôi đi lấy bánh. Tôi chợp mắt, những lọ thuốc tây rơi
lả tả xuống mặt, gạt ra không kịp.
Cái ô tô đen bóng đỗ êm ven hè. Người lái xe trườn đẩy cánh của.
Tôi bê cái bọc, lù rù xuống. Bây giờ tôi cũng thôi thấy thơm thoảng,
thôi thấy êm đít như mấy hôm mới được ngồi lên ô tô. Tôi chẳng quay lại,
không biết có ông cốp nào ngồi sau lưng. Tôi đã thành ông Tả Ao, thấy
địa lý dặn khi về chỗ ấy không được ngước mắt lên nhìn. Lắm cái nghĩ
quá, chồng chất những nghĩ, muốn yên không được. Cái xe lại bon bon giữa
đường phố đi làm những việc to tát hay tủn mủn, việc vặt vãnh hay việc
chui lủi, tôi không thể biết, mà tôi vẫn nghĩ.
Tôi khệ nệ vác tải bánh vào nhà tư Nhỡ, đặt lên bàn rồi ngồi xuống
thở. Có người lố nhô vào theo. Mấy người, cả người mũ áo công an vàng
vàng. Hình như các ông thuế, ông công an đã ngồi chõm ven đường bên kia.
Tôi bủn rủn, choáng váng.
- Yêu cầu mở cái gói.
- Tôi, tôi…
- Mở ngay!
Tư Nhỡ ở trong cái lỗ “lều trăm năm” loạng choạng ra, dụi mắt, đương còn ngái ngủ.
- Chào các ông! Ơ thằng kia, thằng lưu manh ở đâu chạy vào đây? A nó đem hàng lậu. Mày định đổ vạ cho nhà ông hả?
Tư Nhỡ xông đến đấm đạp liền hồi vào mặt, vào bụng tôi, vừa đánh
vừa rền rĩ kêu: “Các ông trói nó lên đồn cho tôi. Mả cha thằng ăn cắp,
thằng ăn cắp”.
Trong khi tư Nhỡ xấn xổ đánh tôi, mấy người chức việc ngồi vào ghế
mở sổ hý hoáy ghi chép, cũng không ai để mắt đến người bị đòn trước mặt.
Tư Nhỡ nghển lên với tay lấy cái roi mây phất trần. Tôi ù té vùng
chạy thục mạng. Một lúc nhìn lại, chẳng thấy người đuổi. Xung quanh nhộn
nhịp qua lại buổi sáng. Tôi hổn hển bước trong đám đông. Không biết đòn
thật hay đòn giả, hay nó làm phép đuổi tôi, quỵt công tôi. Hai đầu gối
tôi như muốn long ra.
Lúc buồn quá người ta hay bịu vào những mơ màng. Những tôi mơ màng
phía nào cũng vướng. Lại loé lên thằng Vách và cái thừng tròng lọng. Cái
ruột tượng ở nhà tôi hình như vẫn để múi tròng lọng. Nhưng tôi quên cái
việc thắt cổ rồi.
Tôi sờ lên môi. Ngón tay dính nhoè máu. Hàm trên, hổng một lỗ lợi
không thấy đau. Cái răng gẫy văng đi đâu hay đã tụt vào cổ họng lúc
thằng tư Nhỡ đánh quai hàm tôi. Ôi những đứa bị gẫy răng đương ra đứng
sắp hàng trước mặt, con đĩ kẻ Đìa này, thằng Đình này, thằng tôi này…”.
Tư Nhỡ cũng khuyết chiếc răng cửa. Ngày ấy nó đã bị ăn cú đòn mất răng
chăng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét