Buivanbong
* MINH DIỆN.
Gần bốn chục năm tôi mới quay lại
làng Thông. Đứng tần ngần ở ngã ba Gòn
nơi rẽ vào làng, tôi bỗng
nhớ cây gạo
trổ bông đỏ rực
mùa hè năm ấy.
Giờ không còn cây
gạo ấy, con đường làng cũng không còn rợp
bóng tre, nhà cửa san sát hai bên như
phố thị. Câu ca dao vui thời dĩ vãng bỗng như văng vẳng bên tai tôi:
“ Làng Thông trồng đậu trồng cà
Hạt đậu thì
đỏ núm cà thì xanh!”
“Mớ đời
con gái làng Thông
Cái váy thì
mỏng cái mông thì tròn!”
Gặp bà già cắp rổ rau ra chợ bán,
tôi hỏi:
- Bà có biết nhà bác Đào?
Bà hỏi lại :
- Chú hỏi Đào nào?
- Dạ, Đào là vợ bác Viên
liệt sỹ!
Bà
nhìn tôi chăm chú rồi khẽ la lên:
- Chú Minh! Có phải chú Minh bên
Bóng ?
- Vâng !
- Không nhận ra chị à? Chị là Đào
vợ anh Viên đây!
Chị Đào buông rổ rau, những mớ rau
ngải cứu nhỏ xíu rơi tung tóe ra đường. Tôi sững sờ. Chị Đào đây ư! Có thật là
chị Đào? Tôi thầm kêu lên khi nắm bàn tay gầy guộc, mỏng mảnh, nhìn khuôn mặt
choắt cheo đầy nếp nhăn dưới vành khăn mỏ quạ lòa xòa những sợi tóc trắng. Cô
diễn viên văn công nổi tiếng xinh đẹp
ngày nào đã trở thành một bà lão lưng còng hom hem thế này ư?
Tôi nói:
- Chị thay đổi nhiều quá em không nhận
ra.
Chị Đào cười:
- Chị già lắm rồi phải không chú?
Tôi biết mình trót lỡ lởi làm chị
Đào tủi thân. Nhìn nụ cười buồn trên đôi
môi đỏ thắm quýt trầu của chị, tôi bỗng nhận ra cái duyên thời con gái vẫn chưa
dứt bỏ chị. Chị nhặt vội mấy mớ rau bỏ vào rổ rồi quay quả dẫn tôi về nhà. Vừa
đi chị vừa háo hức kể:
- Cháu Thắm thỉnh thoảng lại nhắc đến chú. Nó ở với chị.
Nó được thằng con trai ngoan lắm. Chính vợ chồng nó đã mang hài cốt của anh chú
về đấy...
Chị Đào không hề trách tôi nửa lời
rằng sao gần bốn mươi năm tôi không sang
thăm chị, dù làng Bóng với làng Thông chả cách bao xa, và năm nào tôi cũng
về. Chị ấy không trách tôi càng cảm thấy
ân hận. Đôi khi mình trách người khác vô tình nhưng bản thân lại tệ hơn .
Nhà của chị Đào ở cuối
xóm.
Ba gian nhà ngói đơn sơ , phía trước có mảnh vười trồng toàn rau
ngải cứu. Bàn thờ anh Viên ở gian giữa ,tấm ảnh đen trắng của anh đã
bạc màu lồng khung kính đặt cạnh cây nhị. Tôi thắp ba nén nhang , đứng
nghiêm
trước chân dung người đồng đội. Tôi ngạc nhiên khi thấy hai
chiếc vé tàu hỏa dán vào ảnh anh Viên.
Chị Đào bảo:
- Vé tàu đưa anh chú về quê đấy!
Chị lấy tay chùi nước mắt , khẽ
khàng lau khung ảnh và
chiếc bầu nhị nhẵn bóng vết tay người chồng đã hy sinh.
Chị bảo tôi:
- Anh Viên còn sống năm nay bảy
hai. Anh ấy hơn chú năm tuổi...
Vâng, anh Viên hơn tôi năm tuổi,
nhưng hai anh em nhập ngũ cùng một
ngày. Khi nhập ngũ tôi mới chỉ là một
cậu học sinh vừa tốt nghiệp cấp III, anh Viên đã là một cán bộ văn hóa thông tin . Anh kẻ khẩu hiệu đẹp,
kéo nhị rất hay,có giọng hát ấm và đóng kịch cũng có duyên. Người ta gọi
anh là “ Viên dao pha” trong đội văn
công không chuyên của huyện. Nhờ đa tài như vậy mà anh Viên cua được chị Đào, khi con trai làng Thông hồi ấy hễ thấy chị
đâu là mắt la mày lém, trong đó có anh Châu học Tiệp Khắc về , cưỡi xe
đạp favorit láng coong
bám chị như đỉa . Chị Đào vừa đẹp vừa hát hay. Những điệu chèo “Sắp qua
cầu”, “ Đường trường thủy chiều”, “ Luyện năm cung” , “ Chầu văn” chị hát tròn vành rõ tiếng chất giọng
mượt mà say lòng người.
Đêm liên hoan tiễn chúng tôi lên đường, anh Viên
và chị Đào lên sân khẩu diễn
trích đoạn một vở chèo đôi trai gái yêu nhau , trước ngày nhập ngũ,
anh thanh niên tỏ ra băn khoăn để thử
lòng người yêu. Anh Viên hát điệu sa
lệch chênh:
“Ai
chả biết đi là tiến bộ! Nhưng mẹ già còn đó cậy ai trông?”
Chị Đào hát đối: “Anh còn chú bác?”
Anh Viêt hát đối lại: “Chú bác chưa thông!”
Chị Đào : “Anh còn đoàn thể?”
Anh Viên: “Còn
bận việc chung!”
Chị Đào: “Thì
đành em nhận!”
Anh Viên: “Lạ đời chưa cưới đã làm dâu ...”
Chị Đào nghiêng vành nón che
đôi má
thẹn đỏ bừng, đôi mắt long lanh
chứa chan hạnh phúc. Cảnh và người đều
thật, không hề có một tý giả dối nào. Thưở
ấy anh Viên, chị Đào và chúng tôi
hồn nhiên hát, hồn nhiên cười vì chung quanh đều là ánh hào quang rực
rỡ.
Anh Viên và tôi vào đơn vị công
binh,đóng quân ở Tam Nông , Phú Thọ được 3 tháng thì tôi đi học sỹ quan, anh
Viên được điều lên trung đoàn vào đội tuyên văn. Bẵng đi suốt chín năm, mùa khô 1974
chúng tôi mới gặp lại nhau.
Hôm ấy tôi đến tiểu đoàn 739 đang
mở tuyến đường từ Campuchia
xuyên sang Cà Tum, Tây Ninh, chuẩn bị chiến dịch Hổ Chí Minh, tình cờ
gặp anh Viên. Không ngờ anh đã rời đội tuyên văn trung đoàn , xuống đơn
vị chiến đấu từ lâu và hiện
đang làm đại đội phó chỉ huy đơn vị bắc cầu qua suối Bà Chiêm.
Anh Viên nói:
- Hồi anh em mình nhập ngũ, tớ với
Đào đóng kịch hóa ra thật . Đào
giữ lời hứa chăm sóc mẹ tớ như con dâu,
nhưng mãi cuối năm 68 tớ mới được về phép
tổ chức cưới. Năm 69 sinh cháu Thắm. Cuối năm 1970
, trước khi rời đội tuyên văn
xuống đơn vị đi B2, tớ được về
tranh thủ , bé Thắm đã biết
nghe bố kéo nhị cho mẹ
hát và bập bẹ hát theo...
Hai anh em đang nói chuyện thì
chiến sỹ đến báo phát hiện bom nổ chậm
dưới bến, anh Viên bảo tôi:
- Tớ phải đi !
Anh không kịp bắt tay tôi . Mười
phút sau một tiếng nổ dội lên ở phía bến. Linh tình báo điềm chẳng lành, tôi
băng rừng chạy xuống .Bến cầu mù mịt
khói bụi, gỗ đá ngổn ngang , mùi thuốc bom khét lẹt. Anh Viên cùng năm
chiến sỹ hy sinh, xác anh bị hất lên một
chạng ba cây.
Tháng 6 năm 1975,từ Sài Gòn, tôi
mang chiếc ba lô đựng tư trang và
tấm bản đồ một chí của anh Viên về cho chị Đào. Chị ôm chiếc ba lô khóc chết
ngất, trong khi cháu Thắm ôm con búp bê tôi mua cho hỏi : “Sao bố Viên không về với chú?”
... Chị Đào vừa bó những mớ
rau ngải cứu vừa kể cho tôi
nghe cuộc sống côi cút của mẹ con chị ba mươi chín năm qua. Anh Viên
hy sinh lúc chị mới ba mươi tuổi , còn trẻ đẹp,
nhiều người đặt vấn đề, nhưng chị thương con, thương anh Viên , nên dứt
khoát ở vậy nuôi con, lo hương khói cho chồng và bố mẹ chồng...
Chị nói:
- Từ khi chú đưa tấm bản đồ mộ
chí anh Viên, chị muốn đi đón anh vể,
nhưng nấn ná mãi đến năm tám sáu mới đưa được anh về.
Sự nấn ná của chị Đào chung quy chỉ vì
nghèo. Cái thời hợp tác xã nông nghiệp đã lên bậc cao ấy làng Thông vẫn chỉ có
hai vụ lúa . Chị Đào là lao động chính , mỗi vụ
làm được 900 điểm , mỗi điểm được chia
2 lạng thóc , nhân lên được 180
kg . Ngần ấy thóc xay, giã ra được
126 kg gạo. Hai mẹ con dẻ xẻn vẫn
không đủ ăn 6 tháng. Chị Đào phải quai bờ sông, bờ mương trồng
thêm khoai sắn ăn độn. Chị chủ tâm
dành mảnh vườn trước nhà trồng
rau , mùa nào thức ấy, bán lấy tiền mua
cám nuôi con lợn , cố gom góp
dành dụm tiền làm lộ phí vào Nam bốc mộ anh Viên. Nhưng bé Thắm ốm đau quặt
quẹo nên được đồng nào hết đồng ấy.
- Năm 1986 mới
dành dụm được hơn trăm đồng cho
cháu Thắm đi đón bố về chú ạ!
Chị Đào nói và rướm nước mắt.
Giữa lúc đó cái Thắm con gái chị đạp xe về.
Mới ngày nào còn là một đứa bé ngây thơ ôm con búp bê hỏi tôi “Sao bố
Viên không về với chú?” , giờ Thắm đã là
một phụ nữ đứng tuổi, và gương mặt đã hiện lên những nếp nhăn từng trải lo
toan. Tôi nói với Thắm:
- Năm tám sáu cháu mới mười bảy
tuổi mà đi vào tận Tây Ninh mang được hài cốt bố về , giỏi thật! Ngày vào Nam bố cháu phải đi bộ vượt Trường Sơn, ngày trở về được
đi tàu Thống Nhất, chắc bố cháu
vui lắm.
Tôi không ngờ Thắm đáp lại câu
nói vui của tôi bằng lời nói ngắn ngủn, chua cay:
- Chiếc vé tàu phải trả bằng máu
đấy chú ạ!
- Cái con này! Chị Đào đập tay
vào lưng con gái. Tôi hỏi :
- Chuyện gì sảy ra vậy cháu?
Thắm kể:
- Ngày ấy cháu với Thành vừa
thi tốt nghiệp phổ thông trung học xong
thì vào miền Nam
tìm mộ bố cháu. Chúng cháu cầm tấm bản
đồ của chú đến Tỉnh đội Tây Ninh . Các chú trong Ban chính sách tra
cứu hồ sơ cho biết hài cốt bố cháu đã quy tập về Nghĩa trang liệt sỹ.
Nhờ sự giúp đỡ của các chú ấy, chúng cháu lấy được hài cốt bố Viên
thuận lợi.
Không ngờ khi đến ga Sài Gòn mua vé tàu ra Bắc thì bị kẻ cắp móc hết
tiền. Thành bảo
cứ lên tàu, về đến ga Nam Định ,Thành
có người quen sẽ mượn tiền mua vé phạt.
Nhưng chúng cháu vừa
ngồi xuống
ghế thì cô soát vé đến kiểm tra . Chúng cháu nói thực ,xin được giúp đỡ,
nhưng
cô ta kêu trưởng tàu đến khám xét. Hài cốt bố cháu gói ni lông, ngoài
bọc cờ đỏ sao vàng bị trưởng tàu lấy dao rạch ra , nghi hàng
lậu. Khi nhìn thấy gài cốt thật, hắn lạnh lùng bảo: “ Có tiền mua vé thì
đi,
không thì xuống”.
Chúng cháu bị đuổi khỏi tàu .
Giữa đêm khuya , không biết nhờ ai, cháu
cứ ôm chiếc ba lô đựng hài cốt bố khóc .
Đến sáng, Thành bảo cháu ngồi chờ đề Thành đi mượn tiền. Gần trưa Thành mới về , mặt mũi xám ngắt.
Thành nói thực là đã đến bệnh viện bán máu . Số tiền Thành bán máu vừa đủ mua
hai chiếc vé tàu hạng bét để đưa bố cháu
về quê !
Thật cay đắng cho số phận một người lính. Căm giận cô kiềm soát vé và gã trưởng bao
nhiêu tôi cảm thấy yêu thương và khâm phục Thành bấy nhiêu. Nhưng rồi tôi bị
hụt hẫng khi chị Đào cho biết , Thành và Thắm
đã ly hôn gần mười năm rồi.
Chị Đào nói:
- Thằng Thành từ khi được
làm cán bộ xã rồi lên huyện , có chức có quyền có tiền sinh ra ăn nhậu ,
gái gú bỏ vợ chú ạ. Người tử tế mấy vào con
đường ấy cũng hỏng .
Tôi hỏi Thắm:
- Con cháu đâu?
- Ra Quảng Ninh nhặt than chú ạ!
- Nó tốt nghiệp bách khoa sao
lại nhặt than?
- Không xin được việc phải nhặt than kiếm ăn chứ chú?
Tôi cười xuê xoa:
- Thế nào rồi ông ngoại Viên
linh thiêng cũng sẽ phù hộ cho cháu có việc làm đàng hoàng!
Thắm nói ngay không đắn đo:
- Tiền bạc mới linh thiêng chú
ạ!
Chị Đào cho tôi biết , mỗi ngày chị bán
chục mớ rau ngải cứu được ba chục
ngàn, còn Thắm đi làm thuê cho xưởng chế biến thức ăn gia súc trên thị trấn,
mỗi tháng được triệu rưỡi. Hai mẹ con cố
gom góp 100 triệu để thế chân cho cháu
ngoại anh Viên sang Nhật làm thuê.
Chị Đào mời tôi ăn cơm nhưng tôi
không thể nuốt nổi. Miếng chả trứng rau
ngải bỏ vào miệng đắng ngắt. Vợ và con người liệt sỹ ngồi kia vừa gần gũi vừa xa cách nhau, một người cố nín
nhịn đề đi hết cuộc đời còn lại, một
người muốn bung xé đề giải thoát, nhưng đều bế tắc. Tôi đứng trước tấm hình anh Viên, thầm nói
với anh:
- Những thứ anh em mình tưởng là
vàng son hó a ra chỉ là ảo ảnh thôi anh ạ!
Có lẽ chả bao giờ tìm lại niềm vui từ những câu ca dao : “ Làng Thông trồng đậu trồng cà. Hạt đậu
thì đỏ núm cà thì xanh. Mớ đời con gái làng Thông. Cái váy thì mỏng cái mông
thì tròn”.
M D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét