Thuốc Đắng
Những ngày gần đây trên mạng “lề trái” đăng mấy bài phê ông Vũ
Khiêu, người được Đoảng sáng suốt ban tặng danh hiệu Giáo sư, Anh hùng
lao động. Trong khi mấy báo “lề phải” thì vưỡn đăng những tin tức đại
loại như Sài Gòn khánh thành khu tưởng niệm vua Hùng, trong đó có khắc
bài văn của Vũ Khiêu. Lùi lại một chút, số báo tết Giáp Ngọ của chuyên
đề Văn nghệ Công an còn đăng một bài ca ngợi ông Vũ Khiêu do chính bà
con dâu của ông Vũ Khiêu (GS.TS. Nguyễn Thị Quý) viết, lại còn đăng ảnh
đại gia đình ông Khiêu 4 thế hệ tươi như hoa chụp cùng ông Đại tướng Bộ
trưởng công an Trần Đại Quang, như một cách ngầm khoe rằng nhà ta quen
nhiều cốp lắm, ai mà dây vào là dại nhé. Người xưa có câu “mẹ hát con
khen hay”, qua bài viết ca tụng bố chồng hết lời của bà
Quý thì thiên hạ chỉ còn biết chặc lưỡi “bố chồng… giáng bút, con dâu khen hay”. Ông Khiêu giỏi giang gì thì sớt gúc-gồ thấy toàn bài ca ngợi, nhưng khổ nỗi ở Việt Nam ta khi Đoảng đã khen thì ai dám chê. Mà Đoảng phong ông là giáo sư, Anh hùng lao động rồi cơ mà. Nên nhớ như cô Nhã Thuyên, Đoảng có ý kiến thì đến cái bằng Thạc sỹ học bằng thực học cũng bị thu lại.
Sẽ có bạn thắc mắc, nhỡ đâu Đoảng khen ông Khiêu là đúng thì sao? Vì dân gian có câu “người khôn nói trăm câu cũng phải câu dại, người dại nói trăm câu cũng được câu khôn”. Có lẽ ông Khiêu rơi vào cái xác xuất đúng 1% này. Do vậy, Thuốc Đắng tôi xem lại khoảng mươi tác phẩm ông Khiêu viết từ trước tới nay (khổ, nghỉ hưu rồi, rỗi rãi chả có việc gì mà), về cơ bản mà nói thì “hổng ngửi được”. Để mấy bữa rảnh tôi sẽ có bài viết phân tích sâu. Về cái phần câu đối, văn chúc nọ kia của Vũ tiên sinh thì càng nôn ruột, bài nào cũng “vinh quang thay”, “vẻ vang thay”, “tự hào thay”. Nào là nhân nghĩa sáng soi, nào là toàn dân đoàn kết, sơn hà thịnh trị… toàn những khẩu hiệu sáo không ngửi được, khiến một bạn đọc phải kêu lên rằng: “Xin thôi đi cho, ông Khiêu. Ông suốt ngày được ve vuốt, có biết đâu nỗi khổ của người dân oan khuất nơi vườn hoa, góc phố đòi công lý bao năm nay mà chẳng thấy đâu. Thì đoàn kết ở đâu, thương yêu nỗi gì. Bút tích trên văn bia để lưu dấu cho hậu thế, nào phải chuyện vung bút nói xằng, đừng để lại ở đó những gì mà người dân không muốn đọc, không muốn nghe, vì nó không đúng. Ông quá già và lẫn rồi”.
Cái sự già và lẫn của Vũ tiên sinh còn ở chỗ ông “đọc nhầm” câu đại tự trên hoành phi đình Bình Đà, hoành phi ghi rành rành “Thánh Tổ Siêu Việt”, ông lại đọc thành “Vi Bách Việt Tổ”. Sự “nhầm” của ông còn ở chỗ cái ấn giả ở đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình), trên đó có bốn chữ Thượng Nguyên Chu Thị (Họ Chu ở huyện Thượng Nguyên - bên Tầu) mà ông đọc thành Thiên Nhân Hộ Quốc, để đến nỗi Chủ tịch nước phải về khai ấn. Thêm một sự nhầm nữa là ông viết ca ngợi Bình Đà thời Lạc Long Quân: “Đất rồng chầu phượng múa - Phật chở che: Trăm trứng - Trăm con”. Ối giời ơi là giời, đạo Phật mới có chưa đến 2.600 năm, trong khi thời đại Hùng Vương theo truyền thuyết là 4.000 năm, thế mà Phật lại chở che được. Tài quá!
Nhân “dư âm ngày Giỗ Tổ” (là vì các cơ quan ban ngành của Việt Nam nghỉ lễ dài lắm, trước lễ, trong lễ và sau lễ cơ), tìm đọc lại bài chúc văn dâng lên vua Hùng của Vũ Tiên sinh, lại phát hiện một điều là tiên sinh xào xáo kinh người, một bài đem nhân bản ra để đọc, chỉ thay tí ngày tháng, nhuận bút lĩnh đều, lại thuộc hàng “khủng” nữa, vì có dán mác GS, AHLĐ mà. Thật xướng là một đại văn xào. Kính mời quý độc giả xem 2 bài này thì biết.
Thuốc Đắng
Quý thì thiên hạ chỉ còn biết chặc lưỡi “bố chồng… giáng bút, con dâu khen hay”. Ông Khiêu giỏi giang gì thì sớt gúc-gồ thấy toàn bài ca ngợi, nhưng khổ nỗi ở Việt Nam ta khi Đoảng đã khen thì ai dám chê. Mà Đoảng phong ông là giáo sư, Anh hùng lao động rồi cơ mà. Nên nhớ như cô Nhã Thuyên, Đoảng có ý kiến thì đến cái bằng Thạc sỹ học bằng thực học cũng bị thu lại.
Sẽ có bạn thắc mắc, nhỡ đâu Đoảng khen ông Khiêu là đúng thì sao? Vì dân gian có câu “người khôn nói trăm câu cũng phải câu dại, người dại nói trăm câu cũng được câu khôn”. Có lẽ ông Khiêu rơi vào cái xác xuất đúng 1% này. Do vậy, Thuốc Đắng tôi xem lại khoảng mươi tác phẩm ông Khiêu viết từ trước tới nay (khổ, nghỉ hưu rồi, rỗi rãi chả có việc gì mà), về cơ bản mà nói thì “hổng ngửi được”. Để mấy bữa rảnh tôi sẽ có bài viết phân tích sâu. Về cái phần câu đối, văn chúc nọ kia của Vũ tiên sinh thì càng nôn ruột, bài nào cũng “vinh quang thay”, “vẻ vang thay”, “tự hào thay”. Nào là nhân nghĩa sáng soi, nào là toàn dân đoàn kết, sơn hà thịnh trị… toàn những khẩu hiệu sáo không ngửi được, khiến một bạn đọc phải kêu lên rằng: “Xin thôi đi cho, ông Khiêu. Ông suốt ngày được ve vuốt, có biết đâu nỗi khổ của người dân oan khuất nơi vườn hoa, góc phố đòi công lý bao năm nay mà chẳng thấy đâu. Thì đoàn kết ở đâu, thương yêu nỗi gì. Bút tích trên văn bia để lưu dấu cho hậu thế, nào phải chuyện vung bút nói xằng, đừng để lại ở đó những gì mà người dân không muốn đọc, không muốn nghe, vì nó không đúng. Ông quá già và lẫn rồi”.
Cái sự già và lẫn của Vũ tiên sinh còn ở chỗ ông “đọc nhầm” câu đại tự trên hoành phi đình Bình Đà, hoành phi ghi rành rành “Thánh Tổ Siêu Việt”, ông lại đọc thành “Vi Bách Việt Tổ”. Sự “nhầm” của ông còn ở chỗ cái ấn giả ở đền Trần (Hưng Hà - Thái Bình), trên đó có bốn chữ Thượng Nguyên Chu Thị (Họ Chu ở huyện Thượng Nguyên - bên Tầu) mà ông đọc thành Thiên Nhân Hộ Quốc, để đến nỗi Chủ tịch nước phải về khai ấn. Thêm một sự nhầm nữa là ông viết ca ngợi Bình Đà thời Lạc Long Quân: “Đất rồng chầu phượng múa - Phật chở che: Trăm trứng - Trăm con”. Ối giời ơi là giời, đạo Phật mới có chưa đến 2.600 năm, trong khi thời đại Hùng Vương theo truyền thuyết là 4.000 năm, thế mà Phật lại chở che được. Tài quá!
Nhân “dư âm ngày Giỗ Tổ” (là vì các cơ quan ban ngành của Việt Nam nghỉ lễ dài lắm, trước lễ, trong lễ và sau lễ cơ), tìm đọc lại bài chúc văn dâng lên vua Hùng của Vũ Tiên sinh, lại phát hiện một điều là tiên sinh xào xáo kinh người, một bài đem nhân bản ra để đọc, chỉ thay tí ngày tháng, nhuận bút lĩnh đều, lại thuộc hàng “khủng” nữa, vì có dán mác GS, AHLĐ mà. Thật xướng là một đại văn xào. Kính mời quý độc giả xem 2 bài này thì biết.
Năm 2010 | Năm 2000 |
I Chúng con nay Sáu mươi ba tỉnh thành: nhớ lại tổ tiên Năm mươi tư dân tộc: tìm về cội rễ! Công ơn Quốc tổ, vẻ vang Hồng Lạc bốn ngàn năm Hùng khí Thủ đô, rực rỡ Thăng Long mười thế kỷ. Một vùng rộn rã trống chiêng Muôn dặm tưng bừng cờ xí! Trống đồng dội tới, núi sông dậy sấm rền vang Trống đồng vang lên,Trời đất ngút ngàn linh khí! Bừng lên nhật nguyệt, mây xanh hạt trắng, bát ngát trường thiên… Rực rỡ sơn hà, Cờ đỏ sao vàng, thênh thang thánh địa. Thuyền xuôi sóng vỗ, sông ba dòng tưới mát muôn phương Rồng cuộn, Hổ ngồi, núi trăm ngọn chầu về một phía Núi mây sừng sững công cha Sông nước dạt dào nghĩa mẹ! II Nhớ thuở xưa: Mẹ từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân Cha vốn biển cả quật cường mưu trí. Sánh đôi tài sắc Kim cổ kỳ phùng Hợp một âm dương uyên ương tuyệt mỹ! Đẹp gia đình trăm trứng trăm con Vui sơn thủy một lòng một ý. Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn Đường lập nghiệp gian nan xiết chảy Nào rừng rậm, đầm lầy, vực sâu, núi hiểm… chẳng quản xông pha Nào kình nghê, hổ báo, bệnh tật, bão giông… lấy gì bảo vệ? Chia con hai ngả lên đường Chọn trưởng một ngôi kế vị. Giang sơn một cõi, sao cho vạn đại trường tồn? Rừng bể đôi nơi, cùng dựng bốn phương hùng vĩ! Hiên ngang thay Phù Đổng diệt thù! Dũng cảm thay Sơn Tinh trị thủy! Đẹp thay Chữ Đồng Tử! Tình yêu như ngọc sáng gương trong Giỏi thay Mai An Tiêm! Lao động như dời non lấp bể Dựng non sông, qua mười tám vương triều Vững nền móng, để muôn đời thịnh trị III Kiên cường bất khuất: An Dương Vương kế nghiệp, hợp hai bộ tộc vốn thân thương Âu Lạc quốc hình thành, dựng một cơ đồ thêm tráng lệ Nước manh giầu, binh hùng mạnh, đánh tan mọi cuộc xâm lăng Tình với bạn, nghĩa với đời, giữ trọn một niềm chung thủy. Giận quân giặc bao phen thua trận, dở mưu hèn giả dạng cầu hòa Bởi vua ta cả dạ tin người, để con gái sa vào qủy kế Cơ đồ xưa: bỗng chốc tiêu vong Sự nghiệp mới: cũng thành hủy phế Cảnh lầm than đè nặng khắp dân gian Cuộc chiến đấu trải dài bao thế hệ Gái anh hùng, nào Trưng Nữ, Triệu Trinh Trai dũng lược, nào Phùng Hưng, Lý Bí! Ào ào khí thế, cờ Vạn Xuân trao Triệu Việt Vương Bền bỉ tinh thần, gương Khúc Hạo soi Dương Đình Nghệ Quét sạch ngoại xâm, sơn hà giành lại, lẫy lừng đại nghiệp Ngô Vương Dẹp yên nội loạn, đất nước thanh bình, oanh liệt hùng tài Đinh Đế Dương Thái hậu một lòng vì nước, thay Tiên vương trao áo Hoàng bào Lê Đại Hành mười đạo ra quân, dìm hoàng tặc dưới dòng Bạch Thủy Lòng hung dạ tối, Lê Ngoạ Triều hết kiếp hôn quân Nước cậy dân tin, Lý Thái Tổ lên ngôi hoàng đế IV Kể từ đây: Đạo trị binh đủ phép kinh luân Tài thao lược hơn đời nhân trí Ra tay dựng lại, vững vàng thêm cơ nghiệp Vua Hùng Định hướng đi lên, rực rỡ mãi Vương triều họ Lý Cùng nhân dân phấn đấu tận tình Với bạn bè chân thành hữu nghị Cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng Ta muốn yên mà người chẳng nể Giã tâm cướp nước cũng lại như xưa Quyết trí diệt thù ta đành phải thế Cứu nước giữ nhà, toàn dân càng rạo rực đồng tâm Vác giáo mang gươm, cả nước bừng bừng nộ khí! Sóng Bạch Đằng còn cuồn cuộn thế Ngô Vương Gió Như Nguyệt đã vang vang lời Thái úy Hội Diên Hồng rung chuyển trăng sao Hịch Hưng Đạo sục sôi tướng sĩ! Nằm gai nếm mật, mười năm ròng, bạt vía lũ Vương Thông. Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị Thế kỷ hai mươi: Hồ Chí Minh mở lối, ánh chiếu dương rực sáng cả mây trời Đảng Cộng sản soi đường, đưa cách mạng ào lên như bão bể Năm năm tư Pháp thua đại bại Súng Điện Biên vang dội toàn cầu Năm bảy nhăm Mỹ cút Ngụy nhào Cờ đại thắng lẫy lừng thế kỷ Cả Nam Bắc đập tan đế quốc, chấm dứt bạo quyền Toàn Đông Tây hết nạn thực dân, không còn nô lệ V Thế mới biết: Nước giàu không chỉ quân lương Dân mạnh còn nhờ đạo lý! Quốc Tổ răn: Coi sơn hà xã tắc là thiêng Bác Hồ dạy: Lấy độc lập tự do làm quý! Trăm con một bọc, yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa Một gốc trăm nhành, gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng Cơn hoạn nạn, bầu thương lấy bí Đủ bốn phương: Nam, Bắc, Tây, Đông Cả trăm họ: Gái, Trai, Già, Trẻ Bền lòng yêu nước: Vì nghĩa quên thân Vững đạo làm người: Đồng tâm nhất trí Thế gian chìm nổi, coi yêu thương là lẽ sống ở đời Nhân loại khổ đau, lấy đoàn kết làm phương châm xử thế Gìn giữ tinh hoa Đại Việt, tiếp thu thêm văn hoá Đông Tây Nêu cao văn hiến Thăng Long, hoàn thiện mãi quốc hồn nhân trí VI Nay gặp buổi: Đảng ta đổi mới tư duy Dân ta mở mang kinh tế Con đường giàu mạnh đã thênh thang Cuộc sống văn minh càng đẹp đẽ! Thời cơ thuận lợi đã có nhiều Thách thức gian nan còn chẳng dễ Trước chông gai cờ Đảng mở đường Trong bão gió nhân dân vững trí Với tinh thần sắc sảo thông minh Lại truyền thống sáng ngời nhân nghĩa Noi theo Quốc Tổ, tiếp tiền nhân phẩm chất anh hùng Học tập Bác Hồ, truyền hậu thế tinh hoa đạo lý Thủ đô ngàn năm tuổi, cùng toàn dân đẩy mạnh phồn vinh Cả nước một lòng, với nhân loại hoà bình hữu nghị Rực muôn đời Hồng Lạc tinh hoa Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế! |
I Mừng hôm nay: Trống đồng dội tới, Núi sông dậy sấm rền vang Trống đồng vang lên, Trời đất ngút ngàn linh khí! Toàn dân giỗ tổ Hùng Vương Cả nước vui ngày quốc lễ Rộn rã trống chiêng Tưng bừng cờ xí! Bừng lên nhật nguyệt: Mây xanh hạt trắng, bát ngát trường thiên… Rực rỡ sơn hà: Cớ đỏ sao vàng, thênh thang thánh địa. Thuyền xuôi sóng vỗ, Sông ba dòng tưới mát muôn phương Hổ lượn rồng bay, Núi trăm ngọn chầu về một phía Từ đỉnh cao muôn trượng cơ đồ Cùng nhìn lại bốn mươi thế kỷ. Núi mây: sừng sững công cha Sông nước: dạt dào nghĩa mẹ. II Nhớ thuở xưa: Mẹ Âu Cơ Từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân Cha Long Quân Vốn biển cả quật cường mưu trí. Sánh đôi tài sắc: Kim cổ kỳ phùng Hợp một âm dương: Uyên ương tuyệt mỹ! Đẹp gia đình: trăm trứng trăm con Vui sơn thủy: một lòng một ý. Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn Đường lập nghiệp gian nan xiết kể. Nào rừng rậm, đầm lầy, vực sâu, núi hiểm: Há quản xông pha Nào kình nghê, hổ báo, bệnh tật, bão giông: Lấy gì bảo vệ? Chia con: hai ngả lên đường Chọn trưởng: một ngôi kế vị. Giang sơn một khoảnh, sao cho vạn đại trường tồn? Rừng bể đôi nơi, cùng dựng bốn phương hùng vĩ! Hiên ngang thay! Phù Đổng diệt thù! Dũng cảm thay! Sơn Tinh diệt thủy! Đẹp thay Chữ Đồng Tử! Tình yêu như ngọc sáng gương trong Giỏi thay Mai An Tiêm! Lao động như dời non lấp bể Vẻ vang mười tám vương triều Rực rỡ một thời thịnh trị Qua gian nan bao độ nổi chìm Trải thử thách những hồi hưng phế! Chi công lao khai phá một thời kỳ Mà uy lực trải dài bao thế hệ! Hãy xem như: Gái anh hùng, Triệu nữ, Trưng vương Trai dũng lược, Đinh tiên, Lý đế! Sóng Bạch Đằng cuồn cuộn thế Ngô Vương Gió Như Nguyệt vang vang lời Thái úy Hội Diên Hồng rung chuyển cả trăng sao Hịch Hưng Đạo xốn xang toàn tướng sĩ Nằm gai nếm mật, mười năm ròng, bạt vía lũ Vương Thông. Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị Thế kỷ hai mươi: Cờ giải phóng xua tan bóng tối, danh Bác Hồ vang dậy đông tây Khắp toàn cầu hết nạn thực dân, mộng đế quốc tan thành mây khói. Thế mới biết: Nước giàu, không chỉ quân lương Dân mạnh, còn nhờ đạo lý: Coi sơn hà xã tắc là thiêng Lấy độc lập tự do là quý III Chúng con nay: Sáu mươi mốt tỉnh thành: nhớ lại tổ tiên Năm mươi tư dân tộc: tìm về cội rễ Bốn phương: nam, bắc, tây, đông Trăm họ: gái, trai, già trẻ Hân hoan muôn dặm trùng phùng Kính cẩn một chầu đại lễ Xin Tổ vương vạn thế linh thiêng Giúp con cháu ngàn điều chỉ vẽ. Nay gặp buổi: Đảng ta đổi mới tư duy Dân ta mở mang kinh tế Dù dân gian chưa hết đói nghèo Dù xã hội vẫn còn nạn tệ Đường lên giàu mạnh đã thênh thang Nẻo đến văn minh thêm mới mẻ Xin cúi nguyện: Trăm con một bọc, yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa Một gốc trăm cành, gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng Cơn hoạn nạn, bầu thương lấy bí Trước tương lai mở rộng tâm hồn, Vì sự nghiệp nâng cao trí tuệ Bác Hồ dạy: hoàn thành nhiệm vụ Vượt mọi khó khăn, thắng mọi quân thù! Bác Hồ răn: uy vũ coi thường Chớ ngại nghèo nàn, không ham phú quý! Dấn thân cho nước, há ngại tử sinh Hết dạ vì dân, kể gì khó dễ! Giữ muôn đời Hồng Lạc tinh hoa Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế! |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét