Boxitvn
John J. Mearsheimer
Trần Ngọc Cư dịch
Chúng tôi trích dịch một phần từ chương kết luận của cuốn The Tragedy of the Great Power Politics
[Bi kịch của Chính trị Đại cường] của John J. Mearsheimer, phiên bản
mới nhất được cập nhật vào tháng Tư 2014 và phần kết luận này được đăng
lại trên National Interest
dưới nhan đề “Can China Rise Peacefully?” Tuy nhiên, nhan đề của bản
dịch này vốn là một tiểu đề trong chương sách, chứ không do chúng tôi
đặt ra.
Tiến sĩ John J. Mearsheimer là Giáo sư Khoa học Chính trị của Đại học Chicago và nằm trong Hội đồng Cố vấn của tạp chí The National Interest.
Một liên minh chống
Trung Quốc do Mỹ lãnh đạo mà Mearsheimer tiên đoán là một phát triển hợp
lý và đáp ứng nguyện vọng của đại đa số các quốc gia được dự kiến là
thành viên. Tuy nhiên, việc ông gộp Việt Nam vào liên minh này thì có vẻ
là “wishful thinking” [tư duy tự sướng] hơn là dựa vào bằng chứng thực
tế. Vì sao? Xin hãy nhìn vào những nhà bất đồng chính kiến bị đàn áp
thẳng tay hoặc/và bị đày ra khỏi nước, chỉ vì họ là những người chống
chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc mạnh mẽ nhất; nhìn vào hàng loạt rừng đầu
nguồn chiến lược được đem cho người Trung Quốc thuê dài hạn; nhìn vào
hợp đồng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bất chấp sự phản đối của các
nhà chiến lược và học giả Việt Nam; nhìn vào các khu công nghiệp có xu
thế trở thành khu tự trị của người Trung Quốc, mà Vũng Án, Hà Tĩnh, là
một trường hợp điển hình; nhìn vào việc Trung Quốc trúng thầu khoảng 90%
dự án đầu tư vào các công nghiệp có ý nghĩa chiến lược của Việt Nam.
Ngoài ra, lãnh đạo nhà nước độc đảng Việt Nam đã thề thốt nặng lời với
Trung Quốc là “không liên minh với nước này để chống lại nước kia.”
(Tuyệt vời, nếu cái nước kia ấy không hề chiếm hoặc toan tính tiến chiếm
biển đảo của Việt Nam và nhiều nước khác!)
Dịch giả
|
Tư liệu lịch sử chứng minh rõ ràng các nhà làm chính
sách Mỹ sẽ phản ứng ra sao trong trường hợp Trung Quốc có ý đồ thống trị
Châu Á. Từ khi trở thành một đại cường đến nay, Mỹ không bao giờ chịu
chấp nhận các địch thủ ngang hàng với mình. Như đã chứng tỏ điều này
trong Thế kỷ 20, hiện nay Mỹ vẫn muốn mình là bá quyền duy nhất của thế
giới tại khu vực này. Vì thế, Mỹ sẽ tung ra nhiều nỗ lực to lớn để ngăn
chặn Trung Quốc và sẽ làm bất cứ điều gì để không cho phép Trung Quốc có
đủ khả năng thống trị Châu Á. Trên cơ bản, rất có thể Mỹ sẽ ứng xử với
Trung Quốc gần như trước đây đã ứng xử với Liên Xô trong Chiến tranh
lạnh.
Các láng giềng của Trung Quốc chắc chắn cũng lo sợ sự
trỗi dậy của nước này, và họ cũng sẽ làm bất cứ điều gì trong khả năng
của mình để ngăn chặn Trung Quốc chiếm địa vị bá quyền khu vực. Thật
vậy, đã có nhiều bằng chứng đáng kể cho thấy những nước như Ấn Độ, Nhật
Bản, và Nga, cũng như các tiểu cường như Singapore, Hàn Quốc, và Việt
Nam, đang lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc và đang tìm cách ngăn
chặn sự bành trướng của nó. Nhiên hậu, các nước này sẽ gia nhập một liên
minh quân bình lực lượng do Mỹ lãnh đạo để kiểm soát sự trỗi dậy của
Trung Quốc, gần như theo cung cách mà Anh, Pháp, Tây Đức, Ý, Nhật Bản,
và sau cùng là Trung Quốc, đã liên minh với Mỹ trong thời Chiến tranh
lạnh để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô.
Chú Sam chọi với Rồng
Còn lâu Trung Quốc mới có đủ khả năng quân sự để theo
đuổi địa vị bá quyền khu vực. Nói vậy không có nghĩa là từ chối những
lý do chính đáng khiến thế giới lo lắng về các cuộc xung đột có tiềm
năng bùng nổ hiện nay do các vấn đề như Đài Loan và biển Hoa Nam [Biển
Đông]; nhưng đó lại là một vấn đề khác. Rõ ràng là, Mỹ quan tâm sâu sắc
về việc phải đảm bảo rằng Trung Quốc không thể trở thành một bá quyền
khu vực. Dĩ nhiên, việc này dẫn đến một câu hỏi cực kỳ quan trọng: chiến
lược tốt nhất của Mỹ nhằm ngăn ngừa Trung Quốc thống trị Châu Á là gì?
Chiến lược tối ưu để đối phó với một Trung Quốc đang
trỗi dậy là ngăn chặn sự bành trướng của nó [containment]. Việc này đòi
hỏi Mỹ phải tập trung vào nỗ lực ngăn cản Bắc Kinh dùng các lực lượng
quân sự để chiếm lãnh thổ và nói chung là để bành trướng ảnh hưởng của
mình tại Châu Á. Để thực hiện mục tiêu này, các nhà làm chính sách Mỹ sẽ
tìm cách thành lập một liên minh quân bình lực lượng gồm càng nhiều
nước láng giềng của Trung Quốc càng tốt. Mục tiêu nhiên hậu là sẽ xây
dựng một cơ cấu liên minh theo đường lối của NATO, vốn từng là một công
cụ hữu hiệu cao độ nhằm ngăn chặn Liên Xô trong Chiến tranh lạnh. Mỹ
cũng sẽ ra sức duy trì sức mạnh khống chế của mình tại các đại dương
trên thế giới, khiến Trung Quốc khó phóng chiếu quyền lực có hiệu quả
vào các khu vực xa xôi như Vịnh Ba Tư và, đặc biệt là, Tây Bán cầu.
Chính sách ngăn chặn trên cơ bản là một chiến lược
phòng thủ, vì nó không đòi hỏi phải khiêu chiến với Trung Quốc. Trên
thực tế, ngăn chặn là một phương án thay thế cho chiến tranh nhằm chống
lại một Trung Quốc đang trỗi dậy. Tuy vậy, chiến tranh luôn luôn là một
khả năng [possibility]. Không vì một lý do gì để Mỹ không thể duy trì
các trao đổi kinh tế quan trọng với Trung Quốc trong khi thực thi một
chiến lược ngăn chặn đối với nước này. Dẫu sao, lịch sử cho thấy Anh,
Pháp và Nga vẫn buôn bán rộng rãi với Đế chế Wilhelm Đức suốt hai thập
niên trước Thế chiến I, mặc dù họ đã ký kết Thoả ước Ba bên [the Triple
Entente] lập liên minh với mục đích ngăn chặn sự bành trướng của Đức. Dù
có đi theo đường lối này chăng nữa, chắc chắn quan hệ mậu dịch Mỹ-Trung
sẽ gặp một số hạn chế vì lý do an ninh quốc gia. Nói tổng quát hơn,
Trung Quốc và Mỹ có thể hợp tác trên nhiều vấn đề khác nhau trong bối
cảnh của một chiến lược ngăn chặn, nhưng từ gốc rễ, quan hệ giữa hai
nước sẽ có tính cạnh tranh.
Căn cứ vào kinh nghiệm phong phú của một cường quốc
từng quân bình lực lượng trên đại dương, chiến lược lý tưởng của Mỹ là
đứng đằng sau được chừng nào hay chừng ấy và để cho các nước láng giềng
của Trung Quốc nhận lãnh gần hết gánh nặng ngăn chặn sự bành trướng của
Trung Quốc. Trên cơ bản, Mỹ sẽ đưa trách nhiệm cho các nước tại Châu Á
hiện đang lo sợ Trung Quốc. Nhưng điều này sẽ không xảy ra, vì hai lý
do. Lý do chủ yếu là, các láng giềng của Trung Quốc sẽ không đủ mạnh để
tự mình chặn đứng Trung Quốc. Vì thế, Mỹ sẽ không còn lựa chọn nào hơn
là phải lãnh đạo nỗ lực chống Trung Quốc và tập trung phần lớn sức mạnh
hùng hậu của mình vào mục đích này. Hơn nữa, có những khoảng cách không
gian rộng lớn giữa các nước Châu Á sẽ là thành viên của khối liên minh
quân bình lực lượng chống Trung Quốc – như giữa Ấn Độ, Nhật Bản, và Việt
Nam. Vì thế, các nước này cần Washington phối hợp các nỗ lực của họ và
tạo ra một hệ thống liên minh hữu hiệu. Dĩ nhiên, Mỹ đã từng ở vào một
tình thế tương tự trong Chiến tranh lạnh, khi Mỹ không còn lựa chọn nào
khác ngoài việc nhận lãnh gánh nặng ngăn chặn Liên Xô tại Châu Âu cũng
như tại Đông Bắc Á. Trên cơ bản, các cường quốc quân bình lực lượng trên
biển cũng phải tham chiến trên đất liền khi các quốc gia địa phương
không thể tự mình ngăn chặn được sự bành trướng của cường quốc có tiềm
năng bá quyền.
Có ba phương án chiến lươc thay thế cho chính sách
ngăn chặn cần được bàn tới. Hai phương án đầu nhắm vào việc chặn đứng sự
trỗi dậy của Trung Quốc hoặc bằng cách phát động một chiến tranh đánh
phủ đầu để ngăn ngừa [a preventive war] hoặc bằng cách theo đuổi các
chính sách nhằm kìm hãm đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Nhưng cả
hai chiến lược này đều không phải là phương án khả thi đối với Mỹ.
Phương án thay thế thứ ba, gây sức ép để Trung Quốc thay đổi chính sách
[rollback], là một chiến lược khả thi, nhưng kết quả sẽ ở mức tối thiểu.
Chiến tranh ngăn ngừa là một phương án không thể thực hiện chỉ vì Trung
Quốc cũng có vũ khí hạt nhân. Mỹ sẽ không tung ra một cuộc tấn công tàn
phá lãnh thổ của một nước có thể trả đũa Mỹ và đồng minh của Mỹ bằng vũ
khí hạt nhân. Nhưng thậm chí nếu Trung Quốc không có vũ khí hạt nhân đi
nữa, ta cũng khó tưởng tượng một vị Tổng thống Mỹ phát động một chiến
tranh phòng ngừa như thế. Mỹ chắc chắn sẽ không cho quân đổ bộ lên Trung
Quốc là nước có một đội quân khổng lồ; còn nếu muốn làm tê liệt Trung
Quốc bằng các đợt không kích dữ dội, thì gần như chắc chắn sẽ đưa đến
việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Điều đó có nghĩa là biến Trung Quốc thành
một “đống tro tàn bốc khói và nhả phóng xạ” [smoking, radiating ruin],
xin mượn một cụm từ của thời Chiến tranh lạnh mô tả cách đối xử mà Không
lực Mỹ định dành cho Liên Xô trong trường hợp xảy ra một chiến tranh
nóng giữa hai nước. Nội bụi phóng xạ hạt nhân thoát ra từ một cuộc tấn
công như thế cũng đủ khiến phương án này không được sử dụng từ đầu. Vả
lại, không ai biết chắc Trung Quốc có còn tiếp tục cuộc trỗi dậy nhanh
chóng của mình nữa hay không và do đó cũng khó biết chắc Trung Quốc cuối
cùng có còn là một mối đe dọa thống trị Châu Á hay không. Tình trạng
không biết chắc tương lai này cũng giúp loại trừ việc sử dụng chiến
tranh ngăn ngừa.
Làm cho đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm
lại chắc chắn là một lựa chọn hấp dẫn hơn chiến tranh hạt nhân, nhưng
đây không phải là một phương án khả thi. Vấn đề chủ yếu là không có một
phương cách thực tiễn nào để làm cho kinh tế Trung Quốc phát triển chậm
lại mà đồng thời không gây phương hại cho kinh tế Mỹ. Người ta có thể
tranh luận rằng kinh tế Trung Quốc sẽ chịu tổn thất lớn hơn, do đó nâng
cao địa vị quyền lực của Mỹ đối với Trung Quốc trong thời gian tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại. Nhưng điều này chỉ có khả năng
xảy ra nếu Mỹ có thể tìm ra các đối tác thương mại mới, còn Trung Quốc
thì không. Mỹ cần phải hội đủ hai điều kiện cùng một lúc.
Không may là, nhiều nước trên thế giới sẽ sẵn sàng
gia tăng giao lưu kinh tế với Trung Quốc, do đó sẽ điền vào chỗ trống để
lại do nỗ lực của Washington nhằm cắt giảm mậu dịch và đầu tư với Trung
Quốc. Chẳng hạn, các nước Châu Âu, vốn không bị Trung Quốc đe dọa
nghiêm trọng, sẽ là những ứng viên đầu tiên chiếm lấy vị trí của Mỹ và
tiếp tục nuôi dưỡng đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Tóm lại, vì
Trung Quốc không thể bị cô lập về kinh tế, Mỹ không thể làm cho tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại một cách có ý nghĩa.
Thực tế lịch sử cho thấy, Anh đã từng đối phó một vấn
đề tương tự với một nước Đức đang trỗi dậy trước Thế chiến I. Một sự
kiện được nhìn nhận rộng rãi trong chính giới Anh lúc bấy giờ là, kinh
tế Đức tăng trưởng ở một tốc độ nhanh hơn kinh tế Anh, điều này có nghĩa
là cán cân lực lượng giữa hai nước đang nghiêng về phía có lợi cho Đức.
Một cuộc tranh luận dữ dội đã diễn ra sau đó về việc Anh có nên ra sức
làm chậm bước tăng trưởng kinh tế của Đức bằng cách nhanh chóng cắt giảm
giao lưu kinh tế giữa hai nước hay không. Các nhà làm chính sách của
Anh kết luận rằng chính sách này sẽ gây tổn thất cho Anh nhiều hơn cho
Đức, một phần lớn vì Đức có thể tìm đến các nước khác, tức những nước
sẵn sàng mua các hàng xuất khẩu mà Đức gửi qua Anh, cũng như cung cấp
hầu hết các hàng nhập khẩu mà Đức nhận từ Anh. Trong khi đó, kinh tế Anh
sẽ bị tổn thương ghê gớm do mất các hàng nhập khẩu từ Đức, những mặt
hàng rất khó thay thế. Vì thế, Anh vẫn tiếp tục giao thương với Đức – dù
cho Đức sẽ mạnh hơn và Anh sẽ yếu đi – chỉ vì đây là phương án ít tai
hại nhất.
Phương án chiến lược thứ ba có thể thay thế cho chính
sách ngăn chặn là gây sức ép buộc đối thủ phải thay đổi chính sách
[rollback], theo đó Mỹ sẽ tìm cách làm Trung Quốc suy yếu bằng cách lật
đổ các chế độ thân Bắc Kinh và có lẽ ngay cả bằng cách gây bất ổn bên
trong Trung Quốc. Chẳng hạn, nếu Pakistan nằm gọn trong phe thân Trung
Quốc, đây là một điều rất có thể xảy ra trong tương lai, Washington có
thể tìm cách thúc đẩy việc thay đổi chế độ tại Islamabad và đặt vào vị
trí lãnh đạo một nhân vật thân Mỹ. Hoặc Mỹ có thể âm mưu khuấy động gây
bất ổn bên trong Trung Quốc bằng cách hậu thuẫn các nhóm phục quốc tại
Tân Cương hay Tây Tạng.
Mặc dù trong Chiến tranh lạnh, Mỹ theo đuổi chiến
lược ngăn chặn chống Liên Xô là chính, nhưng nay [nhờ sự bạch hóa văn
khố lịch sử] chúng ta biết rõ rằng Mỹ cũng đã vận dụng các yếu tố trong
chính sách dùng áp lực để thay đổi đường lối của Liên Xô. Không những Mỹ
đã ra sức gây bất ổn trong nội bộ Liên Xô vào cuối thập niên 1940 và
đầu thập niên 1950, mà Mỹ còn tìm cách lật đổ nhiều nhà lãnh đạo chính
phủ trên thế giới được coi là thân Liên Xô. Trên thực tế, Washington đã
tung ra nhiều hoạt động ngầm trực tiếp nhắm vào Trung Quốc [đồng minh
của Liên Xô] trong các thập niên 1950 và 1960. Những nỗ lực gây sức ép
lên chính sách của Liên Xô ít khi có tác dụng trên cán cân quyền lực của
hai siêu cường và không đóng góp gì cho việc thúc đẩy Liên Xô đi đến
chỗ sụp đổ. Tuy nhiên, các lãnh đạo Mỹ vẫn theo đuổi chính sách dùng sức
ép bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào họ có thể, và không có lý do gì để
tin rằng các nhà làm chính sách tương lai tại Washington sẽ tránh né
chính sách này trong nỗ lực chống lại một Trung Quốc đầy quyền lực. Tuy
nhiên, chính sách ngăn chặn sẽ là chiến lược hữu hiệu nhất, vượt hẳn các
phương án khác rất xa.
Vẫn có một khả năng nhỏ là cuối cùng Trung Quốc sẽ
trở nên hùng mạnh đến nỗi Mỹ không thể ngăn chặn được sự bành trướng của
nó cũng như việc nó sẽ thống trị Châu Á, dù cho quân đội Mỹ vẫn duy trì
các căn cứ tiền phương trong khu vực. Một ngày nào đó Trung Quốc có thể
có sức mạnh tiềm ẩn [latent power] lớn hơn bất cứ một trong bốn bá
quyền tiềm năng mà Mỹ đã đối đầu trong Thế kỷ 20. Về dân số và sự giàu
có – nền tảng của sức mạnh quân sự – cả Đế chế Wilhelm Đức, lẫn Đế chế
Nhật hoàng, lẫn Đức Quốc xã, lẫn Liên Xô đều thua Mỹ khá xa. Nhưng căn
cứ vào việc dân số Trung Quốc hiện nay lớn hơn bốn lần dân số Mỹ và dự
đoán sẽ lớn hơn ba lần vào năm 2050, Bắc Kinh sẽ hưởng được lợi thế đáng
kể về sức mạnh tiềm ẩn nếu một ngày nào đó dân Trung Quốc có được một
lợi tức đầu người tương đương với lợi tức đầu người của dân Hồng Kông
hay Hàn Quốc.
Tất cả sức mạnh tiềm ẩn ấy sẽ cho phép Trung Quốc có
lợi thế quân sự quyết định đối với các đối thủ chính tại Châu Á, đặc
biệt khi ta xét rằng Trung Quốc sẽ hoạt động ngay trên sân sau của mình,
trong khi Mỹ phải hoạt động cách Calfornia hơn 6.000 dặm [gần 10.000
km]. Trong bối cảnh đó, chúng ta khó tưởng tượng Mỹ có thể ngăn chặn
việc Trung Quốc trở thành một bá quyền khu vực. Hơn nữa, Trung Quốc rất
có thể sẽ là siêu cường ngày càng đáng sợ trong cuộc cạnh tranh toàn cầu
diễn ra sau đó với Hoa Kỳ.
Nhưng thậm chí nếu lợi tức đầu người của Trung Quốc
không vươn tới những mức nói trên, và rốt cuộc Trung Quốc không hoàn
toàn có sức mạnh tiềm ẩn như Mỹ, Trung Quốc vẫn ở vào vị trí thuận lợi
để theo đuổi địa vị bá quyền tại Châu Á. Tất cả điều này ngụ ý rằng Mỹ
rất muốn thấy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc khựng lại đáng kể trong
những năm tới. Hậu quả có thể không tốt cho sự phồn thịnh của Mỹ, lại
càng không tốt cho sự phồn thịnh toàn cầu, nhưng sẽ tốt cho an ninh của
Mỹ, vì điều này là quan trọng hơn cả.
Các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ ứng xử thế nào?
Đối với các nước láng giềng của Trung Quốc, câu hỏi
then chốt được đặt ra là, liệu họ sẽ liên minh với Mỹ để quân bình lực
lượng với Trung Quốc, hay họ sẽ hùa theo một Trung Quốc đang trỗi dậy.
Một số nhà quan sát thời sự có thể lý luận rằng có một lựa chọn thứ ba,
là đứng bên lề và giữ thái độ trung lập. Nhưng, các nước tại Châu Á sẽ
không thể ngồi chờ cho cuộc đọ sức trôi qua. Gần như mọi quốc gia sẽ
phải chọn cho mình một liên minh, không phải chỉ vì Bắc Kinh và
Washington sẽ áp đặt sức ép to lớn lên họ, mà còn vì hầu hết các quốc
gia này – vốn yếu hơn Trung Quốc hoặc Mỹ rất nhiều – sẽ muốn có một nước
đàn anh hùng mạnh bảo vệ cho mình trong trường hợp an ninh của họ bị đe
dọa, đó là điều hợp lý.
Vì sự khẩn thiết của sự sống còn, hầu hết các láng
giềng của Trung Quốc sẽ đứng về phe chống lại nó, như hầu hết các nước
Đông Bắc Á và Châu Âu, nếu được tự do lựa chọn trong Chiến tranh lạnh,
đã chọn phương án liên minh với Mỹ để chống lại Liên Xô. Lý do rất đơn
giản: Trung Quốc đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng hơn Mỹ, và các quốc
gia luôn luôn đứng về phe nào chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất của họ,
chứ không liên minh với kẻ thù này. Trung Quốc nguy hiểm hơn Mỹ chính vì
lý do địa lý. Cụ thể là, Trung Quốc là một cường quốc bản địa tại Châu
Á; hoặc là nó nằm ngay sát nách hoặc là nó có khoảng cách dễ dàng tấn
công các nước láng giềng. Điều này đã đúng với Liên Xô trong thời Chiến
tranh lạnh; Liên Xô là mối đe dọa trực tiếp có khả năng đánh chiếm Tây
Đức và Nhật Bản, và nhiều quốc gia khác tại Châu Âu và Đông Bắc Á.
Mỹ, trái lại, ít đe dọa hơn đối với các nước láng
giềng của Trung Quốc. Mặc dù rõ ràng là, Mỹ là một cường quốc hùng mạnh
nhất khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và sẽ duy trì sự hiện diện của mình
thêm một thời gian nữa, nhưng Mỹ là một đại cường xa xôi và chưa bao giờ
có ý đồ to lớn về bành trướng lãnh thổ tại Châu Á hoặc Châu Âu. Lý do
chính là vì Mỹ ở quá xa không thể lao vào nỗ lực xâm chiếm lãnh thổ của
các nước tại những khu vực này. Mỹ phải ra sức phóng chiếu quyền lực của
mình qua các khoảng cách bao la và qua hai vùng nước khổng lồ – Thái
Bình Dương và Đại Tây Dương – chỉ để vươn tới những khu vực quan trọng
chiến lược nói trên. Như vậy, các nước Châu Âu hoặc Châu Á không có nguy
cơ bị Mỹ nuốt chửng hay thống trị, như đã từng lo lắng bị Liên Xô xâm
chiếm trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1990, và lo lắng sẽ bị Trung
Quốc nuốt chửng khi nước này trở thành hùng mạnh hơn nữa trong tương
lai.
Nói vậy không có nghĩa là để chối cãi sự kiện Mỹ đã
từng sử dụng sức mạnh quân sự chống lại nhiều nước tại Châu Á và Châu
Âu. Dẫu sao, Mỹ đã tham gia hai cuộc chiến lớn tại Châu Á (Triều Tiên và
Việt Nam) trong thời Chiến tranh lạnh. Nhưng điểm then chốt ở đây là,
quân đội Mỹ chưa bao giờ đe dọa chiếm đóng hay thống trị những nước này,
như một Trung Quốc hùng mạnh có thể sẽ làm.
Một khía cạnh khác trong tư thế của Mỹ tại Châu Á nêu
bật lý do tại sao Mỹ ít đe dọa các nước Châu Á hơn Trung Quốc. Là một
đại cường đến từ phương xa, Mỹ có được sự lựa chọn cắt giảm phần lớn sự
hiện diện quân sự của mình trong khu vực này, và có thể rút hết quân về
nước – đây là điều có thể quan niệm được. Trung Quốc rõ ràng không có
lựa chọn này. Thật ra, điều mà các nước láng giềng của Trung Quốc lo sợ
nhất là, Mỹ sẽ không đứng bên cạnh họ khi khủng hoảng xảy ra, chứ không
phải quân đội Mỹ có thể tấn công hay khống chế họ. Đây chính là lý do
tại sao Chính quyền Obama đã công bố vào mùa Thu 2011 rằng Mỹ sẽ “xoay
trục chiến lược hướng về Châu Á [pivot to Asia]”, một lối nói vắn gọn
rằng Mỹ sẽ thực sự gia tăng sự hiện diện của mình tại khu vực này.
Washington đang cố gắng trấn an các đồng minh Châu Á của mình rằng, mặc
dù Mỹ tập trung vào Trung Đông và cuộc chiến chống khủng bố suốt một
thập kỷ sau biến cố 9-11, nhưng họ vẫn có thể trông cậy Mỹ canh gác sân
sau cho mình.
Người ta cũng có thể tranh luận rằng Trung Quốc giữ
trong tay một con bài chủ cho phép mình tạo sức ép ít ra đối với một vài
nước láng giềng của Trung Quốc, buộc họ không đứng chung với Mỹ mà phải
liên minh với Bắc Kinh. Một số nước Châu Á, kể cả Australia, Nhật Bản,
Hàn Quốc, và Đài Loan, có quan hệ mậu dịch rộng lớn với Trung Quốc và
cũng đầu tư nhiều vốn tại đó. Vì thế, sự thịnh vượng của những nước này
tùy thuộc vào việc duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Theo quan
điểm trên, tình hình này sẽ tạo cho Trung Quốc một thế đòn bẫy kinh tế
đối với các đối tác thương mại của mình, nghĩa là nếu các nước này gia
nhập liên minh quân bình lực lượng chống Trung Quốc do Mỹ lãnh đạo, Bắc
Kinh có thể đe dọa cắt quan hệ kinh tế và gây phương hại cho sự phồn
thịnh của họ. Thật vậy, theo quan điểm này, Bắc Kinh chắc chắn có khả
năng dùng lợi thế kinh tế để o ép các nước láng giềng nói trên liên minh
với mình.
Điều kiện quan trọng cần phải nhấn mạnh trong luận cứ
nói trên là: kinh tế Trung Quốc phải không bị tổn thương nghiêm trọng
nếu giao lưu kinh tế với một hay nhiều nước láng giềng này bị hạn chế
hay thậm chí gián đoạn. Nói cách khác, điều kiện này không phải là một
trường hợp hai bên đều bị tổn thương [a case of mutual vulnerability],
vốn làm nền tảng cho lý thuyết tương thuộc kinh tế [economic
interdependence], một đề tài mà tôi sẽ bàn đến trong một đoạn sau. Ở đây
sự tổn thất chỉ diễn ra một chiều mà thôi, điều kiện này cho phép Trung
Quốc có đủ khả năng o ép các nước láng giềng và qua đó phá hoại hay ít
ra làm suy yếu nghiêm trọng bất cứ một liên minh quân bình lực lượng
chống Trung Quốc nào mà Mỹ có thể cố gắng tổ chức.
Trên cơ bản, đây là một tình hình mà các cân nhắc
kinh tế và chính trị-quân sự xung đột nhau; điều này nêu lên một câu hỏi
quan trọng: yếu tố nào cuối cùng sẽ thắng thế? Tôi cho rằng các cân
nhắc về an ninh quốc phòng gần như luôn luôn khuynh loát các cân nhắc
kinh tế và rằng các quốc gia sẽ theo đuổi việc quân bình lực lượng để
chống lại chứ không hùa theo kẻ lấn chiếm một khi họ phải lựa chọn giữa
hai chiến lược. Lôgic cơ bản trong luận cứ của tôi đến đây chắc hẳn đã
rõ ràng. Các nước thường liên minh để quân bình lực lượng chống lại các
địch thủ hùng mạnh hơn mình vì đó là đường lối hữu hiệu nhất để tối đa
hóa viễn ảnh sống còn, vốn là mục đích cao cả nhất của một quốc gia.
Chạy theo một quốc gia hùng mạnh hơn mình, trái lại, sẽ làm suy giảm
viễn ảnh sống còn của một nước đàn em, vì nước đàn anh đáng sợ kia được
tự do hành động để trở nên ngày càng hùng mạnh hơn và do đó nguy hiểm
hơn.
Tuy nhiên, lý thuyết áp lực kinh tế lại đi theo một
lôgic khác, nó đặt sự phồn thịnh lên trên sự sống còn của một quốc gia.
Luận cứ cốt lõi của nó cho rằng một quốc gia có sức mạnh thị trường đáng
kể có thể gây tổn thất nghiêm trọng cho nền kinh tế của một nước trong
tầm ngắm của mình, và rằng sự đe dọa trừng phạt kinh tế sẽ đủ sức uy
hiếp một nước yếu kém phải hùa theo một quốc gia hùng mạnh hơn mình. Hẳn
nhiên, cơn đau trầm trọng về kinh tế là một viễn ảnh đáng sợ, nhưng
thảm trạng mất nước lại lù lù xuất hiện như một nguy cơ thậm chí còn
nghiêm trọng hơn. Nói cách khác, sự sống còn của quốc gia là một mệnh
lệnh mạnh mẽ hơn sự phồn thịnh kinh tế rất nhiều. Đó là lý do tại sao
cái lôgíc thực tế chủ nghĩa [realist logic] thường khuynh loát các luận
cứ đặt cơ sở trên áp lực kinh tế, và là lý do tại sao các nước láng
giềng của Trung Quốc sẽ đứng về phe chống lại nó.
Thật vậy, hiện đã có bằng chứng đáng kể cho thấy các
nước như Ấn Độ, Nhật Bản, và Nga, cùng với các tiểu cường như Singapore,
Hàn Quốc, và Việt Nam, đang lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc và
bắt đầu tìm cách ngăn chặn nó. Ấn Độ và Nhật Bản, chẳng hạn, đã ký kết
một “Tuyên bố chung về Hợp tác An ninh” vào tháng Mười 2008, chính vì họ
lo lắng về sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc. Ấn Độ và Hoa Kỳ, vốn
có những quan hệ khá xung khắc trong thời Chiến tranh lạnh, đã trở thành
những người bạn tốt trong thập kỷ qua, một phần lớn vì cả hai đều sợ
Trung Quốc. Tháng Bảy 2010, Chính quyền Obama, trong đó có nhiều cá nhân
thường lên lớp thế giới về sự quan trọng của nhân quyền, đã công bố nối
lại quan hệ với các lực lượng đặc biệt ưu tú của Indonesia, bất chấp
các hồ sơ vi phạm nhân quyền của họ. Lý do cho sự thay đổi chính sách
này là vì Washington muốn Indonesia đứng cùng phe với mình trong khi
Trung Quốc ngày càng trở nên hùng mạnh, và như tờ New York Times
đưa tin, các quan chức Indonesia “gợi ý rằng nhóm lực lượng đặc biệt
[nói trên] có thể thăm dò xây dựng các quan hệ với quân đội Trung Quốc
nếu các lệnh cấm của Mỹ vẫn được duy trì.” [Một điều tương tự vừa mới
xảy ra khi Mỹ tháo dỡ lệnh cấm bán vũ sát thương cho Việt Nam, bất chấp
hồ sơ nhân quyền của nước này, DG].
Singapore, một nước nằm ngay trên Eo biển Malacca cực
kỳ quan trọng và đang lo ngại về sức mạnh ngày một gia tăng của Trung
Quốc, rất muốn đẩy mạnh các quan hệ vốn đã gần gũi với Hoa Kỳ. Vì mục
đích đó, Singapore đã xây một bến tàu nước sâu tại Căn cứ Hải quân
Changi để Hải quân Mỹ có thể điều động một tàu sân bay từ Singapore
trong trường hợp hữu sự. Và quyết định của Nhật Bản vào giữa năm 2010,
cho phép Lính thủy đánh bộ Mỹ tiếp tục đồn trú tại Okinawa, được thúc
đẩy một phần do những lo lắng của Tokyo về tính quyết đoán ngày một gia
tăng của Trung Quốc ở trong khu vực và do nhu cầu liên hệ là cần phải
duy trì chiếc dù an ninh của Mỹ trên đất Nhật Bản. Khi Trung Quốc trở
nên hùng mạnh hơn, các quan hệ giữa những nước láng giềng của Trung Quốc
sẽ trở nên đậm đà hơn trước, đồng thời quan hệ của họ với Mỹ sẽ trở nên
gần gũi hơn.
Sau cùng, cũng nên nói một đôi điều về tương lai của
Đài Loan. Vì tầm quan trọng của Đài Loan trong việc kiểm soát các tuyến
đường biển tại Đông Á, Mỹ có động lực mạnh mẽ là cần phải ngăn chặn khả
năng Trung Quốc chiếm lấy đảo quốc này. Ngoài ra, các nhà làm chính sách
Mỹ rất quan tâm về tuy tín và danh dự quốc gia, điều này càng làm cho
Mỹ khó bỏ Đài Loan hơn. Nói vậy không có nghĩa là bác bỏ cái viễn cảnh
là cuối cùng Trung Quốc có thể trở nên hùng mạnh đến nỗi quân đội Mỹ
không thể bảo vệ đảo quốc này. Nhưng trong tình hình hiện nay, Đài Loan
có khả năng gia nhập một liên minh quân bình lực lượng chống Trung Quốc
do Mỹ lãnh đạo, điều này chắc chắn sẽ gây phẫn nộ cho người dân Trung
Quốc đủ mọi chính kiến và gia tăng cường độ cạnh tranh an ninh quốc
phòng giữa Bắc Kinh và Washington.
Nói tóm lại, lý thuyết của tôi cho rằng, nếu Trung
Quốc vẫn tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của mình trong vài
thập niên nữa, việc này có khả năng dẫn đến một cuộc cạnh tranh an ninh
quốc phòng gay gắt với Mỹ và với các nước láng giềng của Trung Quốc. Tôi
đã đề cập khá nhiều về các chính sách cụ thể mà chúng ta dự kiến các
tác nhân quan trọng sẽ theo đuổi. Chẳng hạn, chúng ta phải dự kiến Trung
Quốc sẽ đưa ra một phiên bản của mình về Học thuyết Monroe [Châu Á của
người Á Châu] và tìm cách đẩy quân đội Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương. Và chúng ta phải dự kiến là hầu hết các quốc gia láng giềng
của Trung Quốc sẽ gia nhập một liên minh quân bình lực lượng do Mỹ lãnh
đạo với mục đích chặn đứng sự bành trướng của Bắc Kinh.
J. J. M.
Dịch giả gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét