Soha.vn
Tuấn Nam - theo Trí Thức Trẻ | 19/03/2014 07:30(Soha.vn) - Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh nói: "Cảng TP. Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”.
LTS: Từ ngàn đời nay, việc "nhìn rõ bản chất thực" của Trung Quốc luôn là một ưu tiên hàng đầu để Việt Nam có đối sách phù hợp với người láng giềng cực kỳ khó lường này.
Và ít ai có thể hiểu thấu Trung Quốc hơn những cán bộ ngoại giao kỳ cựu
đã từng sống giữa lòng Trung Quốc. Báo điện tử Trí thức trẻ xin giới
thiệu tới Quý độc giả loạt bài đặc biệt: TIM ĐEN TRUNG QUỐC: NHỮNG CHUYỆN CHƯA BAO GIỜ KỂ CỦA CÁN BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM.
Bài 1: Vị đại sứ 99 tuổi kể 3 lần làm cứng họng Bộ Ngoại giao Trung Quốc
Là
một vị tướng quân đội nhưng ông đã có “cú tạt ngang” sang ngành ngoại
giao cực kỳ ấn tượng khi đã có 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại
Trung Quốc trong những khoảng thời gian đặc biệt căng thẳng giữa hai
nước (giai đoạn 1974 – 1987). Đã có lần, khi gặp người tiền nhiệm của
mình là ông Ngô Thuyền, ông đã nói rằng: “Anh thì sang Trung Quốc uống
rượu, tôi thì sang cãi nhau!”. Quả thật với những gì đã thể hiện tại
Trung Quốc trong thời kỳ mối quan hệ giữa hai nước có những trục trặc
thì lời nói đùa đó quả không ngoa. Chính phần thắng của những lần cãi
nhau đó luôn thuộc về phía Đại sứ Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong
việc giữ trọn Quốc thể của Việt Nam tại Trung Quốc. Ông chính là Thiếu
tướng Nguyễn Trọng Vĩnh – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Đại sứ đặc
mệnh toàn quyền, Trưởng đoàn ngoại giao tại Trung Quốc - nhân vật chính
trong câu đối:
Làm cố vấn miền Tây, nhớ lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”, luôn nhớ chữ “chủ quyền của Bạn”
Đi đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
BÀI LIÊN QUAN
Chúng
tôi tìm đến nhà Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (SN 1916) vào một ngày
rét nhẹ. Năm nay đã 99 tuổi nhưng ông vẫn giữ được sức khỏe và sự minh
mẫn. Khi biết về ý định của chúng tôi muốn khai thác những câu chuyện về
cách ứng xử của Đại sứ Việt Nam trước cách ứng xử của phía Trung Quốc
trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc không còn được
nồng ấm như dưới thời Chủ tịch Hồ Chí Minh (năm 1974 – 1987), ông cười
và nói ông rất sẵn lòng.
“Số
là, đầu năm 1974, tôi kết thúc nhiệm kỳ làm trưởng đoàn cố vấn giúp
nước bạn Lào, tôi trở về nước. Trong khi thấy tôi chưa nhận nhiệm vụ nào
mới, trong khi đồng chí Ngô Thuyền vốn là Đại sứ của Việt Nam bên Trung
Quốc đau ốm xin về nên Trung ương Đảng quyết định cử tôi sang làm Đại
sứ bên Trung Quốc”, ông bắt đầu câu chuyện với chúng tôi bằng một sự
giải thích như thế.
Trong
quan hệ ngoại giao giữa các nước, việc cử một ủy viên dự khuyết Trung
ương Đảng sang làm Đại sứ ở một nước khác là một điều khá đặc biệt. Vị
“lão” Đại sứ giải thích về sự đặc biệt đó: Hồi đó, Việt Nam coi trọng
Liên Xô là anh cả và Trung Quốc là anh hai nên Trung ương Đảng cử một Ủy
viên Trung ương Đảng sang Liên Xô và cử một ủy viên dự khuyết (cấp thấp
hơn) sang “anh hai”.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh - nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc (Ảnh: Tuấn Nam)
Thiếu
tướng Nguyễn Trọng Vĩnh sang làm Đại sứ bên Trung Quốc được một thời
gian, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Trung Quốc có những dấu hiệu
“lạnh đi”. Và những người ở Đại sứ quán Việt Nam cũng có thể cảm nhận
được những thay đổi đó qua cách đối xử của nước bạn đối với mình.
Đại
sứ Nguyễn Trọng Vĩnh nhớ lại: “Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pol – Pot
đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của Sứ quán (đặt
ngoài hàng rào) thì phía Trung Quốc đã mời tôi lên Bộ Ngoại giao Trung
Quốc để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long. Tại đây, ông ta lên tiếng phản
đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và những lời tố cáo đó.
Khi
đó, tôi đã đáp lại rằng: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự
thật. Chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà
chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ
quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho
phép nước nào nói xấu nước thứ 3 trong lãnh thổ nước Công hòa nhân dân
Trung Hoa”.
Nghe
thấy vậy, tôi liền đáp lại: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây 3 hôm, tôi
thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pol – Pot họp báo nói xấu Việt Nam
chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch
cho họ”.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho hay: “Nói xong tôi ra về mà phía Trung Quốc không nói thêm được một lời nào”.
Một
trong những vấn đề được Trung Quốc đưa ra để làm cái cớ khiêu khích ta
là vấn đề về Hoa kiều. Họ luôn cho rằng chúng ta “bức hại Hoa Kiều”
nhưng sự thực thì không có chuyện đó.
Ông
Vĩnh nhớ lại: “Trong năm 1976, Trung Quốc mời tôi lên rồi tranh cãi về
vấn đề Hoa kiều và người Hoa. Hai bên đều nhất quyết bảo vệ ý kiến của
mình, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi
Đông – thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc (nguyên là tướng trong quân đội)
nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”
với hàm ý đe dọa. Nhưng tôi cũng nói lại rằng: “Tôi cũng đã là tướng,
tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và
thắng Mỹ”. Vậy là ông ta im lặng, không nói được gì nữa”.
Có
lẽ, bởi ông xuất thân là một vị tướng nên những đối đáp của ông vừa có
sự mềm mỏng của một nhà ngoại giao nhưng cũng rất quyết liệt của một vị
tướng. Điều đó cũng được thể hiện trong cách ứng xử của ông khi ở vào
một tình thế khác.
“Một
lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng
Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời
thông báo: “Do Chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa đã quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa
vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi
nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở
Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu
Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh hay
không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự
tiện vào”.
Khi
tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế
xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng TP. Hồ
Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ
tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra
thế giới và tỏ ý thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không
phải là cái ao nhà của Trung Quốc””, ông Vĩnh kể .
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét