Phạm Đình Trọng (Danlambao) - Tường trình buổi làm việc với an ninh
Làm việc với tôi lúc đầu là hai người: một công an cấp thành phố tên
Tuấn ngoài năm mươi tuổi, nước da màu đồng ruộng, mặt nhọn chữ V, đã quá
quen mặt với tôi suốt mấy năm nay và một người trẻ hơn ông Tuấn vài
tuổi, mặc áo thun đen được ông Tuấn giới thiệu cũng là công an thành
phố. Tôi hỏi tên, người đó nói tên Sang.
Tôi tin chắc ông Sang không phải là công an cấp thành phố mà là công an
cấp bộ. Tôi đến trụ sở công an xã Phước Kiển vào phòng trung tá Lâm Ngọc
Thích, trưởng công an xã, hỏi: Thưa anh, tôi được mời đến làm việc ở phòng nào. Ông Thích hỏi ngay: Bác
là bác Trọng phải không? Ông Thích mời ngồi, pha ấm trà mới tiếp khách
và bảo tôi bác ngồi đợi chút, các anh đó đang đến. Tôi hỏi thăm gia
đình, ông Thích bảo quê ông bà nội ngoại của ông đều ở xã Phước Hải,
cạnh xã Phước Kiển này. Ông vui vẻ, cởi mở khoe rằng anh thiếu úy Lê
Phương Tinh, công an khu vực dân cư nơi tôi ở, người hai lần mang giấy
mời của công an đến cho tôi chính là con rể của ông, lấy con gái đầu của
ông.
Uống ngụm trà rồi tôi ra sân đợi thì ông Tuấn đến. Tôi và ông Tuấn đến
phòng ông Thích đi ngang qua một người mặc áo thun đen đứng bên chiếc xe
máy ngay cửa phòng ông Thích. Ngôn ngữ trao đổi và cử chỉ của ông Thích
và ông Tuấn cho tôi hiểu rằng ông Thích giục làm việc đi, ông Tuấn bảo
đợi thêm người, ông Thích liền chỉ người mặc áo thun đen. Lúc đó ông
Tuấn mới biết rằng người mặc áo thun đen đứng trước phòng ông Thích
chính là người sẽ cùng ông Tuấn làm việc với tôi. Người mặc áo thun đen
chính là ông Sang. Sự không quen biết nhau giữa ông Tuấn và ông Sang cho
tôi hiểu rằng ông Sang không cùng đơn vị công an thành phố với ông Tuấn
thì ông Sang phải là công an cấp bộ.
Sau phần thủ tục đầu tiên ông Tuấn hỏi tôi về sức khỏe để ghi vào biên
bản rằng tôi đủ sức khỏe và đủ minh mẫn để làm việc, tôi nói: Lần
trước các anh gửi giấy mời nhưng tôi không đi vì những bài viết của tôi
là của đời sống dân sự. Hiến pháp cho công dân được tư do ngôn luận đã
cho tôi được viết bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, chính kiến. Nếu tôi viết có
gì sai, các anh cứ kiện tôi ra tòa án, tôi sẽ hầu kiện. Đó là đời sống
dân sự. Nhưng công an vào cuộc về những bài viết của tôi thì đã hình sự
hóa đời sống dân sự rồi. Tôi không chấp nhận đời sống dân sự bị hình sự
hóa như vậy. Lần này lại nhận được giấy mời của các anh, tôi đã định
không đi. Nhưng thấy những bài viết bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của tôi
chỉ là việc nhỏ nhặt trong đời sống dân sự mà cứ để các anh nay mời, mai
mời làm cho sự việc nhỏ trở thành lớn, trở thành căng thẳng và các anh
phải đi lại nhiều lần vất vả nên tôi đến đây gặp các anh. Tôi coi đây
chỉ là cuộc gặp dân sự nói chuyện để hiểu biết nhau nên tôi không kí bất
kì một biên bản nào để hình sự hóa cuộc gặp này.
Ông Tuấn gọi tôi là chú. Ông Sang gọi tôi là bác. Hai người thay nhau
hỏi. Bác có trang cá nhân facebook không? Bác có trang này lâu chưa? Mục
đích chú lập trang facebook để làm gì? Tôi nói rằng ở thời công nghệ
thông tin này, trang facebook đã trở thành rất phổ biến từ bà nội trợ
đến cô học trò cấp hai, từ anh nông dân đến ông cán bộ nhà nước đều có
trang facebook công khai những sự việc, những vui buồn trong ngày của
mình để được cộng đồng facebook trên khắp thế giới chia sẻ, tạo ra một
thế giới phẳng rộng lớn. Tôi mới có trang facebook từ năm 2013. Cũng như
mọi người, tôi ghi lại những vui buồn, nghĩ suy, trăn trở trên
facebook. Khác mọi người, tôi là nhà văn. Tôi không chỉ buồn vui, nghĩ
suy về cá nhân tôi mà tôi buồn vui, nghĩ suy, trăn trở về đất nước, về
nhân dân, về thời cuộc.
Ông Tuấn đưa cho tôi xem hai tờ giấy A4 in một list tên những bài viết
của tôi từ trang web Đàn Chim Việt và hỏi đây có phải những bài viết của
chú không? Chú thường gửi bài cho những mạng nào? Trả lời: Tôi thường gửi bài cho trang Boxitvn và trang Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự.
Đàn Chim Việt vẫn đăng bài của chú mà? Không phải chỉ có Đàn Chim
Việt, các trang web khác đều tải bài của tôi từ trang Boxitvn và trang
Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự.
Có lẽ ông Sang không phải là người chuyên trách theo dõi tôi nên hỏi
nhiều câu thuộc về sơ yếu lí lịch mà người chuyên trách về tôi phải rành
rẽ từ đầu như: Bác có tham gia công tác cách mạng gì không? Bác có tham
gia tổ chức xã hội nào không. Tôi nói tôi là người lính nhập ngũ từ
năm 1963 mà cuộc chiến tranh chống Mĩ đến năm 1965 mới thực sự nổ ra.
Tôi đã tham gia trọn vẹn ba cuộc chiến tranh. Chiến tranh chống Mĩ.
Chiến tranh chống Pôn Pốt. Chiến tranh chống Tàu ở biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh chống Mĩ, tôi là người lính ở mặt trận Tây Nguyện. Sau
năm 1975, tôi được điều về Tổng cục Chính trị, là nhà văn ở tạp chí Văn
Nghệ Quân Đội rồi làm biên kịch ở Xưởng phim Quân đội. Hai cuộc chiến
tranh sau, tôi là nhà văn, nhà báo quân đội. Tôi là hội viên các hội:
hội Nhà Văn Việt Nam, hội Nhà Báo Việt Nam, hội Điện ảnh Việt Nam.
Ông Sang có hỏi tôi về Văn Đoàn Độc Lập nhưng chỉ hỏi thoáng qua. Sau
này khi nhân vật công an thứ ba xuất hiện mới hỏi nhiều về Văn Đoàn Độc
Lập và nhân vật này cũng biết rất rõ về tôi và gia đình tôi mà tôi tin
chắc đó chính là người chuyên trách về tôi. Hỏi qua về Văn Đoàn rồi ông
Sang lại quay về cá nhân tôi: Bác là hội viên hội Nhà Văn từ khi nào?
Tôi không nhớ rõ năm nào nhưng lâu rồi. Tôi trả lời và nhìn Sang, nói: Tôi biết anh không phải là công an thành phố mà là công an bộ.
Sang cười. Nụ cười thú nhận. Sau cuộc gặp, nhìn lại ba công an vừa làm
việc với tôi, tôi thấy ở ông Sang phần người còn nhiều hơn cả trong ba
công an, phần công cụ chưa lấn át phần người. Hai người còn lại thì phần
người đã bị khuất lấp sau phần công cụ.
Ông Tuấn đưa ra một tập những bài viết của tôi được in từ trên mạng và
bảo tôi kí xác nhận: Lần trước chú đã kí 19 bài rồi. Hôm nay chú kí tiếp
những bài này. Tôi bảo lần này tôi không kí vì ba lẽ. Một là không cần
thiết. Bài viết đã ghi rõ tên tôi là đủ để xác nhận rồi. Hai là lần
trước tôi kí đã tạo ra tiền lệ để lần này tôi lại được mời đến gặp các
anh để kí. Mấy tháng sau tôi có những bài viết mới lại bị gọi lên kí lần
thứ ba. Rồi lần thứ tư. Lần thứ n. Là nhà văn, tôi không thể thờ ơ với
cuộc sống, với số phận nhân dân, số phận đất nước nên cứ phải viết cho
đến lúc từ giã cuộc đời. Rồi đến lúc sắp chết sẽ lại bị các anh nhét bút
vào tay bắt kí. Ba là công dân có quyền tự do ngôn luận vì thế bài viết
của tôi hoàn toàn hợp pháp trong đời sống dân sự. Tôi phải kí xác nhận
bài viết với công an là tôi đã tự hình sự hóa bài viết của tôi. Tôi
không thể làm điều đó.
Ông Sang bảo: Bài của bác sao bác không dám kí. Bác sợ à? Tôi mỉm cười: Nếu
sợ tôi đã không dám viết. Có viết cũng không dám kí tên thật mà phải
dùng một cái tên ảo Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Văn Hèn nào đó. Tất cả các
bài viết của tôi trên mạng suốt bao năm nay tôi đều ghi tên đầy đủ, rõ
ràng. Không có bài nào tôi phải giấu tên. Điều đó xác nhận rằng tôi
chẳng có gì phải sợ hãi. Làm đúng với lương tâm, trách nhiệm và luật
pháp thì có gì phải sợ hãi, anh Sang nhỉ.
Ông Tuấn cắm cúi viết chắc là ghi biên bản. Chỉ còn đối đáp của ông Sang
và tôi. Việc trùng tên rất thường gặp. Cũng có khi người khác ghi tên
bác ở bài của họ thì sao. Vì thế bài nào của bác, bác phải kí xác nhận
để phân biệt với những bài khác. Tên của tôi và bài viết của tôi là một
chỉnh thể thống nhất. Văn phong, giọng điệu, ngôn ngữ, tình cảm, thái độ
và cả kiến thức, trí tuệ trong bài viết của tôi cũng đã làm nên cái tên
Phạm Đình Trọng và cái tên đó luôn là một chỉnh thể thống nhất với bài
viết. Bài viết cũng như vân tay của một người. Từ vân tay công an xác
định được người có vân tay đó thì từ bài viết, công an cũng dễ dàng xác
định được người viết bài đó.
Lặp đi lặp lại đòi hỏi bác phải kí xác nhận bài viết là của bác thì cũng lặp đi lặp lại lí do không kí: Không
phải chỉ riêng tôi phải kí mà hàng trăm, hàng ngàn người khác cũng đã
và sẽ bị các anh yêu cầu kí vào bài viết. Số giấy mực in lại bài viết
của một người thì không đáng bao nhiêu nhưng bài viết của hàng trăm,
hàng ngàn người thì tiền giấy mực không phải là nhỏ. Dân mình còn nghèo
lắm. Tiền giấy các anh in bài là tiền thuế của những người dân nghèo
chạy ăn từng bữa đấy. Chúng tôi cứ kí hết lần này đến lần khác là các
anh cứ vô tư tiêu phí những đồng tiền thuế của dân nghèo vào những việc
không đáng tiêu. Tôi không thể hình sự hóa bài viết của tôi. Tôi không
thể suốt đời cứ bị gọi lên gặp các anh để kí xác nhận bài viết.
Nếu bác không kí thì không có gì xác nhận có buổi làm việc hôm nay. Ông
Sang nhắc đi nhắc lại câu đó rồi hứa: Bác cứ kí đi. Đây là lần kí cuối
cùng. Sẽ không có lần thứ ba nữa. Tôi bảo: Lòng tin của người dân vào
công an bây giờ xuống rất thấp. Chả có gì bảo đảm rằng tôi không còn bị
các anh mời lên kí xác nhận bài viết nữa. Chúng tôi sẽ ghi vào biên bản
làm việc điều đó. Biên bản các anh đưa vào hồ sơ rồi cất trong tủ sắt.
Tôi đâu có bằng chứng về lời hứa của các anh. Tôi đề nghị các anh ghi
điều đó ra giấy để tôi giữ lời hứa của các anh bằng giấy trắng mực đen.
Ông Sang im lặng rồi đi ra ngoài. Trong quá trình làm việc, ông Sang
mấy lần ra khỏi phòng gọi điện thoại. Lần này ông Sang ra ngoài khá lâu.
Trở vào phòng, ông Sang ngồi lặng lẽ, dáng chờ đợi.
Gần nửa tiếng im lặng chờ đợi, người thứ ba mới xuất hiện. Lời giới
thiệu của ông Sang về nhân vật mới chỉ vẻn vẹn có cái tên, anh Toàn. Mặt
trắng, sáng sủa. Chân râu xanh rì quanh miệng. Đầu hói khoảng ba mươi
phần trăm. Dáng nho nhã của con người bureau. Nhìn ông Tuấn thấy sự hăng
hái, xông xáo, thấy cả sự tất bật, băm bổ của con người hành động thì
nhìn ông Toàn nhận ra sự lạnh lùng, kín đáo của con người toan tính,
nhận ra cả sự tư tin của kẻ rất có ý thức về sức mạnh đang có trong tay.
Cái tự tin “công an là pháp luật, pháp luật là công an” của mọi công an
nhà nước cộng sản Việt Nam.
Lời đầu tiên ông Toàn nói ngay những hiểu biết của ông về tôi, tuy những
hiểu biết đó chỉ là bề ngoài, không đúng thực chất và không ăn nhập với
đề tài buổi làm việc: Bác còn quá khỏe, còn đi khắp nơi. Bác có hai nhà
cho thuê. Lương hưu lại cao... Ông Toàn còn kể ra cả căn hộ tôi đang ở
là căn hộ penthouse, căn hộ thông tầng. Tôi nói: Những điều anh Toàn
nói tuy có cái không đúng như tôi làm gì có hai nhà cho thuê nhưng tôi
không cần diễn giải vì đây là lĩnh vực riêng tư của đời sống cá nhân
được pháp luật bảo đảm bí mật, không bàn ở đây.
Ông Toàn hỏi tôi về Văn Đoàn Độc Lập. Văn Đoàn đã có hoạt động gì? Các
tổ chức quốc tế có công nhận Văn Đoàn, có ủng hộ sự ra đời của Văn Đoàn
không? Trang web của Văn Đoàn do ai làm? Bác đã viết bài cho trang web
này chưa? Tham gia Văn Đoàn như thế nào? Tôi bảo: Anh Toàn cũng biết
thời nước ta còn bị Pháp đô hộ, còn chưa có độc lập thế mà Tự Lực Văn
Đoàn còn được ra đời và hoạt động suốt mười năm, từ năm 1932, để lại một
nét son, một dấu ấn sâu đậm mãi mãi trong lịch sử văn học nước nhà. Bây
giờ nước ta đã có độc lập, có Hiến pháp bảo đảm quyền lập hội cho công
dân thì các nhà văn thành lập Văn Đoàn Độc Lập cũng là bình thường. Một
xã hội dân sự phải có các tổ chức xã hội thực sự của người dân, do người
dân thành lập và duy trì hoạt động. Ông Toàn cắt lời tôi rằng trên
thế giới không nước nào có xã hội dân sự cả. Tôi rất ngạc nhiên về nhận
thức xã hội dân sự của ông Toàn. Tôi nói chỉ có mấy nước cộng sản là
không có xã hội dân sự thôi. Phần lớn các nước trên thế giới đều là xã
hội dân sự. Văn Đoàn Độc Lập chưa chính thức ra đời. Mới có 61 người tập
hợp nhau lại thành ban vận động rồi mới tiến tới thành lập Văn Đoàn.
Tôi chỉ là một trong 61 người đó. Anh Toàn theo dõi các trang mạng thì
cũng biết các hãng thông tấn nổi tiếng thế giới như BBC, RFA đều đã có
bài phỏng vấn, đưa tin về Văn Đoàn. Đó là sự ủng hộ, chào đón của họ với
Văn Đoàn. Chỉ là thành viên, không có chức trách gì ở Văn Đoàn nên tôi
không biết ai làm trang web của Văn Đoàn và tôi cũng chưa có bài đăng ở
đó. Những người gia nhập Văn Đoàn đều là tự nguyện ghi tên xin tham gia
qua email.
Ông Sang hỏi email của tôi nhưng tôi bảo email thuộc bí mật thư tín cá nhân nên tôi không thể tùy tiện cung cấp cho mọi người.
Ông Toàn giơ lên tờ giấy A4 in lại từ Facebook của tôi bài “Hoa của Bauxite Việt Nam, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ viếng thầy Đinh Đăng Định”
và hỏi: Bác có quan hệ với Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ chứ? Những ngày lễ
của họ, họ vẫn mời những người như bác đến dự lễ mà. Tôi bảo: Thầy
Đinh Đăng Định chỉ vì phản đối dự án khai thác bô xít Tây Nguyên mà bị
tù. Thày bị bệnh hiểm nghèo, gia đình xin cho thầy ra tù để chữa bệnh
nhưng công an không cho. Đến lúc bệnh của thầy không còn chạy chữa được
nữa, cái chết đã cận kề, công an mới trả thầy về gia đình để rũ bỏ trách
nhiệm tang lễ cho thầy. Thầy chết, những công an đã gần gũi thầy suốt
nhiều năm không ai đến viếng thầy nhưng Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ xa lạ
chưa hề gặp thầy đã gửi hoa viếng thầy. Hoa của Bauxit Việt Nam, hoa của
Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự mang tấm lòng của cả nước đến với thầy. Hoa của
Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ mang tấm lòng của loài người dành cho một con
người. Ba giá hoa đẹp đó gây cho tôi sự xúc động mạnh mẽ nên tôi đã chụp
ảnh đưa lên fb của tôi.
Lại trở về với những bài viết của tôi, ông Sang: Dạo này bác viết nhiều
không? Bác có nhớ viết bao nhiêu bài không? Trong đầu thoáng xuất hiện
một câu hài hước, tôi nhìn ông Toàn và có lẽ trên gương mặt tôi có nụ
cười thấp thoáng khi tôi nói: Tôi viết bài nào thì các anh đều biết cả.
Có các anh nhớ hộ, thống kê hộ nên tôi cũng chẳng cần nhớ tôi đã viết
bao nhiêu bài. Ông Toàn nói: Lần trước bác kí là năm 2012. Hơn một năm
bác mới lại kí nhận bài viết của bác, đâu có nhiều. Bỗng ông Toàn căng
giọng: Bác không kí thì còn làm việc dài. Hôm nay không xong thì ngày
mai, ngày mốt. Tôi bình thản: Tôi sẵn sàng ngồi với các anh. Nhưng
các anh không có quyền làm điều đó. Công chức nhà nước chỉ được làm
những gì pháp luật cho phép. Ông Toàn: Bác sợ mới không dám kí nhận
bài viết của mình. Tôi biết ông Toàn sử dụng ngón nghề điều tra, đánh
vào tâm lí tự ái cá nhân nhưng tôi vẫn thấy như bị xúc phạm liền nói to: Anh nói thế là xúc phạm tôi. Tôi chẳng có gì sai để phải sợ các anh. Ông Toàn vẫn không thôi ngón đòn tâm lí: Tôi biết trong lòng bác đang sợ. Kiên trì lí lẽ của mình, tôi nói ngắn gọn: Tôi không kí để tự hình sự hóa bài viết của mình. Tôi không kí để cứ phải kí suốt đời. Ông Toàn liền lớn tiếng như quát: Bác còn viết thì còn phải kí!
Bác còn viết thì còn phải kí! Sự tự tin của ông Toàn đó! Công an
là pháp luật, pháp luật là công an đó! Không có điều luật nào cho phép
công an được mời công dân đến trụ sở công an vì những bài viết hợp pháp.
Không có điều luật nào buộc công dân phải kí xác nhận bài viết hợp pháp
với công an. Nhưng ông Toàn vẫn nói chắc nịch như công bố một điều luật
của công an: Bác còn viết thì còn phải kí! Tôi lại nhớ đến câu nói của
ông Sang mới ít phút trước: Đây là lần kí cuối cùng, không có lần kí thứ
ba. Con người công dân của ông Sang đó! Bác còn viết thì còn phải kí!
Con người công cụ của ông Toàn đó!
Kí – Không kí. Đã nói hết lí lẽ với nhau vẫn không chấp nhận đề xuất của
nhau. Chẳng còn gì để nói, tất cả đều ngồi im lặng. Chợt ông Toàn đưa
ra lối thoát: Bác không kí vào từng bài thì kí vào tờ giấy ghi rằng từ
ngày 10 tháng tư năm 2014 trở về trước, những bài đứng tên Phạm Đình
Trọng là của bác. Chúng tôi viết rồi đưa bác kí hoặc bác tự viết tờ giấy
đó cũng được. Suy nghĩ giây lát, tôi chấp nhận giải pháp này. Tôi xin
tờ giấy A4 và tự viết. Ông Sang nhắc tôi ghi tiêu đề Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhưng tôi không chấp nhận. Với tôi, đây không phải là
văn bản pháp luật. Tôi viết ngắn gọn: XÁC NHẬN / Những bài viết trên
mạng internet kí tên Phạm Đình Trọng từ ngày 10. 4. 2014 trở về trước là
của tôi, Phạm Đình Trọng / Phước Kiển ngày 10. 4. 2014 / Kí tên.
Tôi đưa tờ giấy vừa viết cho ông Toàn. Ông Toàn đề nghị tôi thay chữ “kí
tên” trong câu “Những bài viết trên mạng internet kí tên…” bằng chữ
“đứng tên”. Lại phải lấy tờ giấy khác viết lại.
Ông Sang ra ngoài mời cô nhân viên hành chính Ủy ban Nhân dân xã Phước
Kiển và ông hàng xóm cạnh trụ sở công an xã Phước Kiển vào làm chứng
việc tôi viết giấy xác nhận. Lại mời cô công an xã Phước Kiển vào viết
văn bản để hai người làm chứng kí.
Trong khi chờ ông Sang đi mời mấy người vào viết giấy làm chứng, tôi hỏi ông Tuấn: Anh Tuấn có biết hình ảnh của anh được đưa lên tất cả các trang mạng tiếng Việt khắp thế giới không? Ông Tuấn im lặng. Mặt ông Tuấn vốn đã tối như càng tối hơn. Ông Toàn nói: Sự nổi tiếng ấy cũng là do các bác. Tôi bảo: Tôi
có đến viếng đám tang anh Lê Hiếu Đằng nhưng lúc anh Tuấn cướp băng
tang, tôi không ở đó. Không biết ai chụp được bức ảnh giây phút anh Tuấn
làm việc đó và đưa lên mạng. Là người phải có cái đức. Cái đức để sống ở
đời và cái đức để lại cho con cháu, anh Tuấn nhỉ.
Giấy xác nhận rồi giấy làm chứng xác nhận đã xong. Đến biên bản làm việc
cũng mất khá nhiều thời gian vì Kí – Không kí. Cuối cùng tôi chấp nhận
xóa chữ “Đương sự” viết thay vào chữ “Người làm việc” ở cuối biên bản
và ghi: Như lúc đầu tôi đã nói đây chỉ là buổi gặp gỡ trao đổi để
hiểu nhau nên tôi không kí vào bất kì biên bản nào. Tôi không đọc biên
bản này.
LỜI CUỐI
Đến nay tôi vẫn chưa lí giải được vì sao công an cần một chữ kí của tôi
đến vậy. Vì thế tôi vẫn chưa xác định được buổi làm việc của tôi với
công an hôm 10.4.2014 là thất bại hay là một kết quả chấp nhận được. Chỉ
nhận ra rất rõ cảm giác mệt mỏi. Mệt mỏi về thể xác song ý chí của tôi
không những không hề lay chuyển mà còn giúp tôi từng trải hơn, vững vàng
hơn.
Những cuộc làm việc như vậy thực sự là cuộc công an khủng bố tinh thần,
nhục hình tinh thần đối với công dân, chà đạp lên quyền con người, quyền
công dân của người dân. Những cuộc làm việc như vậy cũng không khác bao
nhiêu với việc năm công an ở Phú Yên dùng gậy cao su đánh chết công dân
Ngô Thanh Kiều.
Nhân danh pháp luật, công an Phú Yên bắt anh Kiều trái pháp luật rồi cứ
cái đà lạm quyền, lộng hành, mất tính người, năm công an Phú Yên thay
nhau đánh anh Kiều nát nhừ thân thể đến chết. Nhân danh pháp luật, công
an viết giấy mời trái pháp luật, hình sự hóa đời sống dân sự. Những cuộc
làm việc theo giấy mời của công an với công dân là những trận nhục hình
đối với công dân nhằm giết chết con người công dân, con người xã hội,
giết chết con người trách nhiệm với đất nước, với dân tộc, với đồng
loại, để người dân chỉ còn được sống bằng con người sinh vật ích kỉ, chỉ
biết có miếng ăn và chỉ mong được yên thân, để người dân chỉ còn được
sống bằng con người thần dân, phục tùng, cam chịu như một bầy cừu.
Sự lộng hành của công an bằng gậy cao su để lại bằng chứng là cái chết
của anh Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên, cái chết của ông Trịnh Xuân Tùng ở Hà
Nội, cái chết của anh Nguyễn Văn Khương ở Bắc Giang, cái chết của em học
sinh Tu Ngọc Thạch ở Khánh Hòa và cái chết trong đồn công an của hàng
trăm người dân lương thiện khác. Những cái chết đó khắc ghi trong lòng
người dân Việt Nam tội ác của công cụ bạo lực chuyên chính vô sản.
Sự lộng hành của công an bằng việc mời trái pháp luật công dân đến làm
việc để dùng quyền uy của công cụ bạo lực nhà nước đánh đòn cân não vào
tinh thần, ý chí con người tuy không để lại dấu vết trên thân thể nhưng
hiểm độc và nguy hại hơn nhiều lần sự lộng hành của cơ bắp. Còn gì hiểm
độc và nguy hại bằng giết chết con người công dân của một dân tộc. Sự
lộng hành đó cần được ghi nhận lại trung thực bằng chữ nghĩa khắc vào
thời gian, khắc vào lịch sử về một loại tội ác của công cụ bạo lực
chuyên chính vô sản chỉ có ở nhà nước cộng sản.
Viết xong đêm 11. 4. 2014.
Đọc lại và chỉnh sửa đêm 13. 4. 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét