Boxitvn
Phạm Quang Tuấn
Ba phán quyết của Tòa án Quốc tế mà học giả Phạm Quang Tuấn trưng ra làm bằng chứng dưới đây có thể xem là ba thiết chứng chỉ rõ tác dụng phản trắc đắc lực
của Công hàm/Công thư Phạm Văn Đồng nếu Việt Nam đem vấn đề Hoàng Sa –
Trường Sa ra trước Tòa án Quốc tế. Đọc xong không ai không thảng thốt
đến nhói tim. Điều ông Giám đốc Minh triết Việt Nguyễn Khắc Mai nói cách
đây ít lâu bỗng trở thành một ám ảnh ghê gớm: “Công hàm Phạm Văn Đồng
là một tai họa cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo
với Trung Quốc”, là “một công thư phản động”, “có tác hại phản quốc” (Xem ở đây).
Thử nghĩ, công thư của một ông Thủ tướng là “phản động”, “phản quốc”
thì bản thân ông Thủ tướng và bộ sậu Chính phủ của ông ta là gì? Càng
ngày càng thấy cái gọi bằng liên minh cộng sản nhân danh chủ nghĩa vô
sản quốc tế trong thế kỷ XX chỉ ẩn giấu phía sau độc nhất mỗi mưu đồ
thôn tính lãnh thổ của nước lớn đối với nước nhỏ.
Alexandre Soljenitsyne
đã từng khẳng quyết: “Quốc tế – L’International – là một sai lầm, vì bản
thân chữ “inter” có nghĩa là giữa và giữa các quốc gia không có một nền
văn hóa chung nào cả” (L’international est une aberration, car
“inter” signifie entre et entre les nations il n’y a aucune culture
commune). Ngu dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu nước vào
những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết băng vời sang Tàu
sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng về quấn chân dân tộc.
Nhưng cho đến giờ phút
này mà vị nào trong thế hệ cháu con những con người ngu dại kia còn
cuồng tưởng rằng bè lũ Trung Nam Hải có thể cứu được thân phận “cùng hội
cùng thuyền” về ý thức hệ, hay đúng hơn là quyền lợi ích kỷ cho phe
đảng, thì không chỉ lú lẫn thôi đâu, mà chóng hay chầy nhất định sẽ phải
chịu sự phán xét khắc nghiệt nhất của lịch sử. Quả như lời chí sĩ Phan
Châu Trinh: “Gớm thay một lũ hồ tinh / Nương hơi dựa bóng tập tành đã quen”.
Nguyễn Huệ Chi
|
Gần đây một số tác giả, trong đó có cả những luật sư,
đã phân tích giá trị pháp lý của thư (hoặc công hàm hay công thư [1])
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo các nguyên tắc pháp lý quốc
tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc luật pháp nào phải áp dụng là điều
rất quan trọng, nhưng điều quan trọng chẳng kém là phải biết Tòa diễn
giải và áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua phán quyết
của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ quyền: đảo Pedra Branca,
Đông Greenland và đền Preah Vihear.
Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên Đổng
lý tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có văn kiện
chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị Ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear
không có văn kiện hay lời nói nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công
nhận chủ quyền của nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan
trọng đưa đến việc Tòa xử mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có thể suy ra vài
điều về tác dụng của thư Phạm Văn Đồng nếu chủ quyền Hoàng sa – Trường
sa được đem ra kiện trước tòa. Người nào không có thì giờ đọc hết có thể
đi thẳng đến câu cuối (kết luận 14) bài này.
Lưu ý:
Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị gọi
là “thân Tàu” hay “Việt gian”. Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung
Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm
áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm
cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải
là người kiểm điểm, mà chính là người gây ra lỗ thủng.
Phần I. Ý định trong thư Phạm Văn Đồng
Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định (intention)
diễn tả trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vai trò chính yếu trong
sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung
của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem lại thư này nói gì. Nguyên văn thư
Phạm Văn Đồng như sau ([A] và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để
tiện việc bàn luận):
Kính gửi đồng chí Chu Ân Lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại Bắc Kinh.
Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
[A] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ
nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
[B] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn
trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ
với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
Thư này “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” ngày
4/9/1958 của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của Bộ
Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các đảo dọc bờ, Ðài
Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu và tất cả các đảo khác trên
biển cả thuộc Trung Quốc.
(2) Đường cơ sở của lãnh hải thuộc đất liền Trung
Quốc và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối liền các điểm cơ sở
trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ biển [offshore outlying islands];
Vùng biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là lãnh hải của Trung
Quốc. Vùng biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển
Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, kể
cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo
Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo
thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được
đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.
(4) Những nguyên tắc trong đoạn (2) và (3) bên
trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần
đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo
Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị chiếm đóng bởi Hoa
Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ
quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Penghu đang chờ được
chiếm lại. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích
ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ
của Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.
Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (công thư
hay công hàm), ký tên và đóng dấu bởi Thủ tướng một quốc gia, người đứng
đầu Chính phủ, nhân danh Chính phủ để nói và đầy đủ tư cách để đại diện
quốc gia của mình.
Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ lập
trường, thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B) nói
về hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng
lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.
Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng hạn
[3]) cho rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ “Hoàng sa” và
“Trường sa” nên không thể nói là đã chấp nhận chủ quyền Trung Quốc ở
hai quần đảo trên. Họ cho rằng bản tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý
chính, những ý khác (kể cả hải phận quanh Hoàng sa – Trường sa) chỉ là ý
phụ, thư Phạm Văn Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không tán thành
những ý phụ. Những người sính ngôn ngữ luật gọi đây là “nguyên tắc bốn
góc”: chỉ được hiểu từ những gì được viết ra trong văn bản, không được
suy diễn thêm.
Có người còn viện dẫn nguyên tắc “phải giải thích văn
bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả” trong luật quốc tế. Tuy
nhiên, dù giải thích “trong bốn góc” và “ít hại nhất” thì cũng vẫn phải
hợp lý và tuân theo những nguyên tắc logic phổ quát và các định luật
ngôn ngữ căn bản. Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu
câu “[chúng tôi] không đòi hỏi sở hữu [đảo này]” là “[chúng tôi] không
đòi hỏi chủ quyền [đảo này]”, dù theo luật pháp thì không có sở hữu chưa
chắc là không có chủ quyền.
Thử áp dụng nguyên tắc “trong bốn góc”, ta đọc thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”.
Lưu ý chữ “bản”, nói về cả văn bản, chứ không phải chỉ nói về một trong
những tuyên bố trong văn bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán
thành toàn bộ nội dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần
và không tán thành phần khác thì không thể nói là tán thành bản tuyên bố
được. Bản tuyên bố nói trong đoạn 4 rằng lãnh hải Trung Quốc bọc quanh
Hoàng Sa và Trường Sa, tức là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó,
không cần phải nhắc lại trong thư của mình.
Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: “Ông/bà có hứa
sẽ nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự thật?” (Do you
swear to say the truth, the whole truth and nothing but the truth?),
nhân chứng chỉ cần trả lời “I do” là đủ hiểu họ hứa tất cả những điều
được hỏi, chứ không thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2
hay 3, v.v., và chắc chắn là không thể cãi rằng “tôi chỉ nói ‘I do’ chứ
tôi đâu có hứa gì đâu?”. Hoặc trong thủ tục kết hôn, khi được hỏi
“Anh/chị có hứa/thề sẽ…” (theo sau là nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ
cần trả lời “Có” (I do) chứ không cần phải nhắc lại tất cả các lời hứa
người hành lễ vừa đọc.
Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng làm
hẹp lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới viết cụ
thể là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói về một điều tức là loại
ra hay bác bỏ những điều không nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không
có đoạn “tán thành bản tuyên bố” trong câu A, vì không thể vừa tán
thành một bản văn vừa không tán thành nhiều điều trong bản văn đó. Hơn
nữa, câu B không phải là làm rõ nghĩa câu A như nhiều người lý luận, mà
nói về một hành động cụ thể (chỉ thị các cơ quan…) phát sinh từ sự tán
thành trong câu A.
Có người cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa vì
những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam cộng hòa. Lý luận như
vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng
hòa nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân
chia, tức là Việt Nam dân chủ cộng hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi
phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo.
Có người [4] viết rằng, dựa theo “nguyên tắc thực
lòng” (principle of good faith) trong luật quốc tế, vì Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa là những người rất yêu nước, đã từng hy sinh xương
máu để bảo vệ chủ quyền đất nước nên họ không thể thực lòng muốn nhường
lãnh thổ cho nước khác, do đó Tòa án Quốc tế sẽ không nhìn nhận ý định
đó trong thư Phạm Văn Đồng. Diễn giải “thực lòng” theo kiểu này thì thật
kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước sẽ có quyền tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước
lừa bịp các nước khác, rồi tuyên bố rằng tôi không “thực lòng” (in good
faith) khi viết hay ký những văn kiện đó và do đó chúng không ràng buộc
tôi được! Diễn giải kiểu đó thì “nguyên tắc thực lòng” sẽ phải gọi là
“nguyên tắc dối trá” (principle of bad faith)!
Thực ra, sự “thực lòng” trong giao dịch quốc tế phải hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái mình đang viết hay đang ký
như thế nào, và sẽ thực lòng thi hành những gì đã hứa, chứ không có
nghĩa là khi mình nói dối, nói mà “không thực lòng”, thì không sợ sẽ bị
ràng buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp ước, văn
kiện trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác biệt văn hóa chẳng hạn, và
để đảm bảo là mỗi nước thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].
Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành việc
cho bề rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể bỏ
đoạn A đi, chỉ viết rằng: “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn
trọng quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các
cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
ấy”. Như vậy chẳng đủ biểu lộ sự đoàn kết với nước anh em hay sao? (“Tôn
trọng” chưa chắc đã là “tán thành”, tôn trọng nói về hành xử, tán thành
nói về thái độ, tâm ý.)
Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm Văn
Đồng, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tán thành hay chấp nhận
Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường sa. Ít nhất, thư này
không phản ứng gì về câu “áp dụng cho… quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường Sa]” trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này rất quan trọng.
Phần II. Vụ án Pedra Branca
Tóm tắt vụ án
Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là những
đảo nhỏ nằm trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19
trở về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là một bang
của Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc địa Anh xây và
sau đó liên tục cai quản một hải đăng trên Pedra Branca. Năm 1979
Malaysia (quốc gia kế thừa Johor) công bố một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm
trong lãnh hải của mình. Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc
địa Anh) phản đối. Hai nước đưa ra Tòa án Quốc tế phân xử năm 2003. Tòa
xử là Pedra Branca thuộc về Singapore, Middle Rocks thuộc về Malaysia,
còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên theo luật biển chủ quyền
sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của nước nào (lãnh hải khu này chưa phân
định xong) [6, 7].
Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra năm
1953. Năm đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm
rõ tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting
State Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư Johor được tòa coi
là có ý nghĩa rất quan trọng trong vụ án này, và có nhiều điểm tương
đồng với thư Phạm Văn Đồng, nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn
lá thư như sau (đoạn 196 trong [6]):
“I have the honour to refer to your letter . . .
dated 12th June 1953, addressed to the British Adviser, Johore, on the
question of the status of Pedra Branca Rock some 40 miles from Singapore
and to inform you that the Johore Government does not claim ownership
of Pedra Branca.”
dịch:
Tôi xin trân trọng đề cập đến thư của ngài ngày 12
tháng 6 năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về tình trạng của Pedra
Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng Chính phủ
Johore không đòi quyền sở hữu Pedra Branca.”
Những tiêu chuẩn pháp lý được Tòa áp dụng
Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp dụng
như sau (“đoạn xxx” chỉ những đoạn có số thứ tự trong phán quyết của
Tòa [6]):
· Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền thì
cần có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào cách hành xử
hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).
(122. Critical for the Court’s assessment of the
conduct of the Parties is the central importance in international law
and relations of State sovereignty over territory and of the stability
and certainty of that sovereignty. Because of that, any passing of
sovereignty over territory on the basis of the conduct of the Parties,
as set out above, must be manifested clearly and without any doubt by
that conduct and the relevant facts. That is especially so if what may
be involved, in the case of one of the Parties, is in effect the
abandonment of sovereignty over part of its territory.)
· Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức
(chẳng hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí không cần
hai bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định (intention) của hai bên.
Sự thay đổi chủ quyền có thể suy diễn từ cách hành xử của hai bên.
(120. Any passing of sovereignty might be by way
of agreement between the two States in question. Such an agreement might
take the form of a treaty,[...] The agreement might instead be tacit
and arise from the conduct of the Parties. International law does not,
in this matter, impose any particular form. Rather it places its
emphasis on the parties’ intentions (cf. e.g. Temple of Preah Vihear
(Cambodia v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J. Reports 1961, pp.
17, 31).)
· Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết, chẳng
hạn khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của mình, thì chủ
quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia. Hành xử này gọi là sự đồng ý
hay chấp nhận ngầm (acquiescence).
(121. Under certain circumstances, sovereignty
over territory might pass as a result of the failure of the State which
has sovereignty to respond to conduct à titre de souverain of the other
State or, as Judge Huber put it in the Island of Palmas case, to
concrete manifestations of the display of territorial sovereignty by the
other State (Island of Palmas Case (Netherlands/United States of
America), Award of 4 April 1928, RIAA, Vol. II, (1949) p. 839). Such
manifestations of the display of sovereignty may call for a response if
they are not to be opposable to the State in question. The absence of
reaction may well amount to acquiescence. The concept of acquiescence
“is equivalent to tacit recognition manifested by unilateral conduct
which the other party may interpret as consent . . .” (Delimitation of
the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of
America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is to
say, silence may also speak, but only if the conduct of the other State
calls for a response.)
Tóm tắt lý luận và phán quyết của Tòa
Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình liên quan đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:
(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét những
bằng chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra Branca và
Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của Malaysia).
(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho phép Anh
xây hải đăng trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này,
và cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.
(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái nào khẳng định chủ quyền trên các đảo liên hệ.
(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng lý Thuộc
địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca, quyền
Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết lá đáp thư như đã
nói, khẳng định là Johor “không sở hữu” Pedra Branca. Tòa viết trong
phần Kết luận rằng lá thư này “có ý nghĩa lớn” (“has major significance”
đoạn 275) và kết luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood),
tức là đã chấp nhận, rằng họ không còn chủ quyền trên Pedra Branca
(đoạn 223).
(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore đã
nhiều lần khẳng định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia
không phản ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ Malaysia
cho thấy rằng Pedra Branca thuộc Singapore.
Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị trí
hai bên đã dần dà “tiến hóa hội tụ” (convergent evolution) về một quan
điểm chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên Middle
Rocks được cho là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có một quá trình
“tiến hóa hội tụ” tương tự.
Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau:
Johor/Malasia đã mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong
suốt nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về họ.
Nhận xét về phán quyết Pedra Branca
· Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi ngờ
được cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức của bằng
chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan trọng, mà quan trọng là
ý định (intention hay understanding) của hai bên, thông qua cách hành
xử.
· Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra
Branca, mặc dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau
đó không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng chủ quyền.
· Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố nào
duy nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai bên dần
dần thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động của Johor/Malaysia từ 1844
tới 1952, đáp thư Johor 1953, sự thụ động của Malaysia khi Singapore
thi hành chủ quyền trong thời gian 1953-1980.
· Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là “có ý
nghĩa lớn” (has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm
đó, Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.
· Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này chữ
“sở hữu” – ownership – phải hiểu là “chủ quyền” – sovereignty, mặc dù
Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái niệm đó (đoạn 198): ta thấy
là nguyên tắc diễn giải “ít hại nhất” hay “trong bốn góc” không thể đánh
bại một cách hiểu hợp lý.
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là
một văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa không chấp
nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả lời một câu hỏi, nên không
có tác dụng quyết định về mặt pháp lý (conclusive legal effect) [8].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor gây
ra estoppel (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó
không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó đã không khiến
cho Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là
một hành động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral
undertaking) (đoạn 226), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì đáp thư
Johor không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ quyền trên Pedra Branca
hay đang có tranh chấp, mà chỉ là để trả lời một câu hỏi [8].
· Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác, nhưng điều đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.
Phần III. Vụ án Đông Greenland
Tóm tắt vụ án
Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định cư từ
khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của Đan Mạch.
Đan Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của Đan Mạch được một số
nước khác ngầm công nhận (acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan
Mạch đều nằm ở Tây Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan
Mạch không có chủ quyền ở Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị không có
kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem vụ này ra Tòa Công lý Quốc tế Thường
trực (Permanent Court of International Justice), tiền thân của Tòa án
Quốc tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch được chủ quyền toàn đảo Greenland
[10].
Câu trả lời của Ngoại trưởng Ihlen
Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói về một
sự kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày
14/7/1919 trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại trưởng Đan Mạch và Ngoại
trưởng Na Uy, Ngoại trưởng Đan Mạch nói rằng Đan Mạch sắp yêu cầu các
nước công nhận chủ quyền Đan Mạch trên toàn thể Greenland, và hy vọng
việc này sẽ không gặp khó khăn từ phía Na Uy. Ngoại trưởng Na Uy, ông
Ihlen, nói rằng sẽ xem xét vấn đề, và ngày 22/7, trong một cuộc gặp mặt
khác, Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ (“ne fera pas de difficultés”) về vấn đề này. Câu nói này được chính Ngoại trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch từ tiếng Pháp như sau:
“The Danish Government has for some years past
been anxious to obtain the recognition of all the interested Powers of
Denmark’s sovereignty over the whole of Greenland, and it proposes to
place this question before the above-mentioned Committee at the same
time. During the negotiations with the U.S.A. over the cession of the
Danish West Indies, the Danish Government raised this question in so far
as concerns recognition by the Government of the U.S.A., and it
succeeded in inducing the latter to agree that, concurrently with the
conclusion of a convention regarding the cession of the said islands, it
would make a declaration to the effect that the Government of the
U.S.A. would not object to the Danish Government extending their
political and economic interests to the whole of Greenland.
The Danish Government is confident (he added) that
the Norwegian Government will not make any difficulties in the
settlement of this question.
I replied that the question would be examined.
14/7 – 19 Ih.”
“II. To-day I informed the Danish Minister that
the Norwegian Government would not make any difficulties in the
settlement of this question.
22/7 – 19 Ih.”
Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau (các đoạn đánh số là từ phán quyết của Tòa [10] ):
· Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen công
nhận Đan Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu rằng
ở thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ quyền Đông Greenland
nhưng đang dự định mở rộng chủ quyền sang đó) (đoạn 188).
· Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa có tính cách ràng buộc Na Uy,
bởi nó xuất phát từ một Ngoại trưởng, đứng trên cương vị đại diện nước
mình để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một vấn đề thuộc
thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là kết luận này không thể nào chối
cãi được (beyond dispute) (đoạn 192).
· Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và có tính cách quyết định (definitive) (đoạn 195).
· Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh giành
(contest) chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không
được chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).
Nhận xét về phán quyết của Tòa
· Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có thẩm
quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó về vấn đề chủ
quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc “Luật pháp quốc tế không nhấn
mạnh vào hình thức” mà ta đã thấy ở Phần II.
· Điều này cũng cho thấy là quan niệm “mọi sự thay
đổi chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt” là sai lầm. Quan niệm này đôi
khi thấy trong các bài báo Việt Nam.
· Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong cộng
đồng và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là công hàm hay
công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi nữa thì nó cũng đã được ký
tên và đóng dấu bởi một Thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện
Chính phủ, và tuyên bố lập trường của Chính phủ.
Phần IV. Vụ án đền Preah Vihear
Tóm tắt vụ án
Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên giới
Thái Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là đường phân
thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn về phía nam (vùng thấp)
là Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng cao) là Thái Lan.
Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa
Cambodia) ký một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường phân
thủy làm biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập một ủy ban liên hợp
để xác định biên giới. Áp dụng nguyên tắc đường phân thủy thì Preah
Vihear thuộc Thái Lan. Tuy nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban
liên hợp biên giới một địa đồ theo đó thì đường biên giới vẽ chệch về
phía bắc đường phân thủy, khiến Preah Vihear nằm trong lãnh thổ
Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra phân xử tại Tòa án Quốc
tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia [11].
Lý lẽ của Thái Lan
Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ chủ quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:
1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc dùng
đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc Thái Lan.
Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan không dự phần, và đã vẽ
sai vì không theo đúng đường phân thủy. Không có văn kiện chính thức nào
nói rằng bản đồ này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.
2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền Preah Vihear bằng cách chiếm đóng, quản lý.
Phán quyết của Tòa
Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 “không có tính cách
ràng buộc” ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân thủy
trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu cả hai bên thỏa
thuận không áp dụng nó trong trường hợp nào đó (“it was certainly within the power of the Governments to adopt such departures”) ([11], trang 20). Vấn đề là có sự thỏa thuận này không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban liên hợp 1904.
Tòa nhận xét rằng:
· Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên ủy ban
liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ quán Thái Lan
và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có lời phản đối nào từ Thái
Lan. Tòa cho rằng do đó Thái Lan đã đồng ý ngầm (acquiesce).
· Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của họ
thấy bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước này phải
chịu hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường biên giới và đường phân
thủy quá rõ rệt nên không thể viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).
· Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và nhận thấy sự sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.
· Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia.
· Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở Washington
để hòa giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra vấn đề
Preah Vihear.
· Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ Damrong
năm 1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng. Năm
1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách “chủ nhà” mời Hoàng thân
Damrong, Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan, tới thăm Preah Vihear và trương cờ
Pháp tại đó. Ông này tới thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền
của Thái Lan. Tòa viết như sau: “Khó có thể tưởng tượng một sự khẳng
định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ phía Pháp. Việc đó đòi hỏi một phản
ứng. Thái Lan đã không làm gì”, và việc đó cho thấy có vẻ Thái Lan đã
“ngầm công nhận” (tacit recognition) chủ quyền của Cambodia trên Preah
Vihear.
(When the Prince arrived at Preah Vihear, he was
officially received there by the French Resident for the adjoining
Cambodian province, on behalf of the Resident Superior, with the French
flag flying. The Prince could not possibly have failed to see the
implications of a reception of this character. A clearer affirmation of
title on the French Indo-Chinese side can scarcely be imagined. It
demanded a reaction. Thailand did nothing. Furthermore, when Prince
Damrong on his return to Bangkok sent the French Resident some
photographs of the occasion, he used language which seems to admit that
France, through her Resident, had acted as the host country. The
explanations regarding Prince Damrong’s visit given on behalf of
Thailand have not been found convincing by the Court. Looking at the
incident as a whole, it appears to have amounted to a tacit recognition
by Siam of the sovereignty of Cambodia (under French Protectorate) over
Preah Vihear, through a failure to react in any way, on an occasion that
called for a reaction in order to affirm or preserve title in the face
of an obvious rival claim.)
· Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý Preah
Vihear, Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền địa
phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối hành xử im lặng của
chính quyền trung ương.
· Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu rút lính gác Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.
· Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư tương tự, nhưng Thái Lan không trả lời.
Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3 rằng chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.
Nhận xét về phán quyết Preah Vihear
· Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký hiệp ước
biên giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy, và theo
điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái Lan.
· Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên bố đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.
· Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng ý
ngầm), Tòa đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần không
phản ứng trước những hành động hay tài liệu có thể hiểu là khẳng định
chủ quyền của Pháp hay Cambodia.
· Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý của
Thái Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý của nước
này khi cần phải có phản ứng.
KẾT LUẬN
-
Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.
-
“Ý định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn giấu giếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải thích.
-
Những nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).
-
Chỉ một lời nói (có biên bản) của một đại diện có thẩm quyền (như ngoại trưởng) cũng có thể ràng buộc một quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).
-
Acquiescence – đồng ý ngầm, không nói gì khi cần thiết phải nói, tức là khi nước khác khẳng định chủ quyền trên đất của mình hay đất có tranh chấp bằng văn kiện hay hành động – cũng có tác dụng như là lời nói hay văn kiện. Điều này được thấy rõ trong vụ án đền Preah Vihear, khi Thái Lan thua kiện dù không hề có tuyên bố gì từ bỏ chủ quyền.
-
Thư Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa – Trường Sa, nên có thể bị coi là acquiescence.
-
Hơn thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán thành rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
-
Thư Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay văn kiện chính thức nhường chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp ước quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa đến những kết luận chính xác.
-
Thư Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel khiến Việt Nam không có quyền tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa.
-
Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố khiến Trung Quốc giúp Việt Nam dân chủ cộng hòa trong chiến tranh Việt Mỹ, gây tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc trong cuộc chiến đó, thì có thể estoppel sẽ được áp dụng [9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi đưa ra lý lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)
-
Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của thư Phạm Văn Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở chỗ đó.
-
Kết hợp thư Phạm Văn Đồng với các hành động và thái độ khác của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời gian 1954-75, nhất là sự im lặng trong trận chiến Hoàng Sa 1974, nếu đem xử về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa ở Tòa án Quốc tế sẽ có khả năng không nhỏ là tòa sẽ xử rằng từ 1954 tới 1975 Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chấp nhận chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
-
Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không có ý định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa, kết luận 12 ở trên vẫn chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận 5).
-
Nếu đem xử về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa ở Tòa án Quốc tế mà đứng trên quan điểm Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn là kế tục (continuation, successor) của Việt Nam dân chủ cộng hòa và không kế tục quốc gia nào khác, thì có khả năng không nhỏ là Việt Nam thua kiện và mất hẳn chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU
[1] Ngay sau khi lá thư của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân dân
gọi nó là “công hàm”. Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây truyền
thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà nghiên cứu và truyền
thông ngoại quốc thường chỉ gọi là “Phạm Văn Đồng letter”, cũng đôi khi
gọi là diplomatic note. Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần
đây đã gây nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công
hàm tức là cố ý giảm thiểu tầm quan trọng hay chính thức của nó. Bài này
sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi là “thư Phạm Văn Đồng”. Như bài này
sẽ cho thấy, dù gọi nó là gì thì giá trị pháp lý của nó cũng không thay
đổi.
[3] Nguyen Le Ha, Giá trị
pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn
vàng để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và
Trường Sa,
[4] Cao Huy Thuần, Công hàm Phạm Văn Đồng – Góp ý về việc giải thích. http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.
[6] International Court Of
Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu
Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment of 23
May 2008. http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[7] Y. Tanaka (2008) Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore Territorial Dispute before the ICJ. http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665
[8] Việc Tòa không chấp nhận
ba thỉnh cầu của Singapore coi đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ
quyền, là ràng buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết
chính xác là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu hỏi như
sau: “It is [now] desired to clarify the status of Pedra Branca. I
would therefore be most grateful to know whether there is any document
showing a lease or grant of the rock or whether it has been ceded by the
Government of the State of Johore or in any other way disposed of.”
Câu hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ quyền Pedra Branca, mà chỉ
hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do đó Tòa đã đi tới
những kết luận như trên.
[9] Trong luật quốc tế,
estoppel là sự ngăn cấm một nước (A) không được có những hành động mâu
thuẫn gây hại cho nước (B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì
mình đã nói. Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố của A
phải rõ ràng, không thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên bố phải tự nguyện,
vô điều kiện, và bởi người có thẩm quyền; và cuối cùng, B phải làm gì
thiệt cho mình hoặc lợi cho A vì đã thực lòng tin vào lời tuyên bố của
A. (First, the statement creating the estoppel must be clear and
unambiguous; second, the statement must be voluntary, unconditional, and
authorized; and finally, there must be good faith reliance upon the
representation of one party by the other party either to the detriment
of the relying party or to the advantage of the party making the
representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by Estoppel in the
International Court of Justice. California Law Review Volume 74,
1777-1804.)
[10] Permanent Court of International Justice (1933) Legal Status of Eastern Greenland – Denmark v. Norway, Judgment. http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm
[11] International Court Of Justice (1962) Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.
[12] Article ler:
La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du
Grand Lac, de l’embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le
parallèle de ce point dans la direction de l’est jusqu’à la rencontre de
la riière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se
confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu’à la chaîne de
montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d’une part, et du Nam Moun, d’autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l’est jusqu’au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam, conformément à l’article ler du traité du 3 octobre 1893. (theo [10], trang 14)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét