Kami -RFA
Giấc
mộng bành trướng của Trung quốc đã tồn tại hàng nghìn năm nay chứ không
phải là chuyện mới mẻ gì, nhưng việc bành trướng trên Biển Đông trong
lúc này của chính quyền Trung quốc được thừa hưởng từ thời Trung hoa Dân
quốc của Tưởng Giới Thạch, với đường đứt khúc chín đoạn (đường Lưỡi Bò)
cũng chỉ mới xuất hiện đầu năm 1949. Nhưng gần đây, do tầm quan trọng
của con đường huyết mạch vận tải đường biển của Trung quốc và sự thèm
muốn vùng biển giàu tài nguyên này, nên đã khiến vấn đề Biển Đông đã trở
nên nóng bỏng hơn.
Điều gì sẽ xảy ra đối với chủ quyền của VN trên Biển Đông?
Biển
Đông theo cách gọi của Việt nam, hay Biển Tây theo cách gọi của
Philippines, hoặc Biển Nam Hải theo cách gọi của Trung quốc v.v… mà tên
chung lâu nay ta thường thấy xuất hiện trên các bản đồ thế giới nói
chung là Biển Nam Trung hoa (South China Sea). Đây là một biển ven lục
địa có diện tích khoảng 3triệu 500 ngàn km², trải rộng từ Singapore tới
eo biển Đài Loan. Cần phải hiểu vùng biển này và các đảo, quần đảo của
nó không thuộc về chủ quyền của một quốc gia cụ thể nào đó, mà hiện nay
đang là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa nhiều quốc gia trong vùng
như Trung quốc, Đài loan, Philippines, Việt nam, Malayxia, Brunei v.v…
Tuy nhiên vì quyền lợi nên hầu như các quốc gia kể trên đều tự khẳng
định có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định đó là chủ quyền bất khả
xâm phạm của mình.
Nói
ra điều này để thấy việc Trung quốc ngang ngược tuyên bố hầu hết vùng
biển này năm trong đường Lưỡi Bò chín đoạn của họ tự vẽ là của Trung
quốc cũng là chuyện hết sức bình thường như các quốc gia khác trong khu
vực đã làm. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ không phải là quốc gia nào có
đầy đủ các bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền thuộc về mình, mà
là các đảo hay bãi đá ngầm trong vùng biển này đang thuộc về ai quản lý
và liệu nước đó có giữ được hay không trước sự bành trướng ngang ngược
và bất chấp luật pháp quốc tế của Trung quốc.
Bối cảnh quốc tế và khu vực
Nếu
so sánh về tiềm lực kinh tế và quốc phòng của Trung quốc với tiềm lực
của các quốc gia trong khu vực là sự so sánh quá khập khiễng và nếu nói
Trung quốc hoàn toàn có đủ khả năng để sẵn sàng chiếm đoạt bất cứ các
đảo, cụm đảo hay các bãi ngầm… của bất kỳ quốc gia nào trong vùng bất
chấp luật pháp quốc tế là điều không hề ngoa. Nói như vậy để thấy Việt
nam nói riêng hay các quốc gia trong khu vực cần phải có một chính sách
quốc phòng phù hợp, thông qua việc liên minh, liên kết với các cường
quốc khác, hay một tập thể các quốc gia khác có cùng lợi ích để tạo sức
mạnh nhằm đối trọng với Trung quốc là việc làm hết sức cần thiết. Vì nếu
đơn phương một quốc gia trong khu vực thì hoàn toàn không có khả năng
kiềm chế nổi Trung quốc. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng.
Trong
bối cảnh chính trị thế giới một lần nữa đã và đang dần hình thành xu
thế lưỡng cực, một bên là Trung quốc và Nga, còn một bên là Hoa kỳ, EU…
Và hầu hết các quốc gia thuộc khu vực Asian (trừ Việt nam) và các nước
như Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc… hiện nay đều có mối quan hệ tốt với
Hoa kỳ ở mức đối tác chiến lược hoặc đồng minh tin cậy. Điều đó cho thấy
các quốc gia đó hoàn toàn có thể đứng vững trước hiểm họa bành trướng
của Trung quốc nếu có và một điều chắc chắn Hoa kỳ cũng sẽ phải có các
các hành động và biện pháp tích cực để đối phó.
Như
trường hợp tranh chấp đảo Senkaku/Điếu Ngư hiện do Nhật quản lý, giữa
Nhật bản và Trung quốc thì theo hiệp ước chung giữa Hoa kỳ và Nhật sẽ
được phát huy tác dụng cho những trường hợp kiểu này. Do đó nếu trường
hợp nếu đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật quản lý bị Trung Quốc tấn công thì
lập tức Hoa kỳ sẽ ra tay can thiệp ngay lập tức, vì Hoa kỳ bắt buộc phải
có nghĩa vụ bảo vệ những địa điểm mà Nhật đang quản lý theo tinh thần
của hiệp ước chung giữa hai quốc gia. Cũng vậy, ở một mức độ khác, như
trong quan hệ giữa Philippines và Hoa kỳ cũng thế, đây là hai quốc gia
vốn có mối quan hệ giữa hai đồng minh lâu đời, vậy mà trước sức ép của
Trung quốc trên Biển Đông gần đây đang gia tăng, thì ngay trước thềm
chuyến thăm Philippines trong tháng 4.2014 của Tổng thống Hoa kỳ B.
Obama, Hoa kỳ và Philippines đã đạt được một Hiệp ước 10 năm cho phép
lính Mỹ tăng cường hiện diện tại quốc gia Đông Nam Á này.
Giới chức Hà nội đang nghĩ gì?
Gần
đây, việc Thượng Viện Hoa Kỳ đã ra nghị quyết S.RES.412 về Biển Đông
với số phiếu tuyệt đối yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan HD 981, giữ
nguyên hiện trạng và không được cản trở lưu thông hàng hải , điều đó thể
hiện rằng Hoa kỳ hiện nay đẫ có một đồng thuận trong các cấp lãnh đạo
về chính sách ở Biển Đông. Và điều này đã làm không ít người Việt nam
lạc quan khi cho đó là động thái của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức ủng hộ
các nước tranh chấp trong đó có Việt Nam. Cũng như thế, đa số người dân
Việt nam trong lúc này vẫn còn nuôi hy vọng Việt nam sẽ xây dựng với Hoa
kỳ mối quan hệ đồng minh chiến lược để làm đối trọng trước áp lực của
Trung quốc trên biển và trên bộ. Song họ không biết rằng đây là một
chuyện hoàn toàn không dễ và không đơn giản, cho dù đã có ít nhiều dấu
hiệu cho thấy chính phủ Hoa kỳ nương nhẹ đối với Việt nam trong vấn đề
Nhân quyền hay vấn đề Hiệp ước thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP)… Nên hiểu quan điểm của chính phủ (hành pháp) và quốc hội (lập
pháp) Hoa kỳ thường không nhất quán và quan điểm của Quốc hội thường
cứng nhắc hơn rất nhiều.
Một
điểm mấu chốt nhất hiện nay mà Việt nam khó có thể vượt qua là do Việt
nam là một quốc gia cộng sản và các nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo
Đảng CSVN đến lúc này vẫn có mong muốn và hy vọng coi Trung quốc – kẻ
thù của mình là chỗ dựa chiến lược và lâu dài. Đồng thời họ luôn nghi
ngờ coi Hoa kỳ và các quốc gia dân chủ tiến bộ khác là những thế lực thù
địch, luôn có âm mưu xóa bỏ chế độ XHCN do Đảng CSVN lãnh đạo. Vì họ
luôn hiểu rằng hai đảng cộng sản Việt nam và Trung quốc có chung đường
lối và vận mệnh chính trị không thể tách rời và nếu bỏ hoặc coi Trung
quốc là kẻ thù thì không sớm thì muộn sẽ mất Đảng của họ ngay lập tức.
Đây cũng chính là tử huyệt của Đảng CSVN mà Trung quốc đã nắm rất rõ từ
lâu.
Đặc
biệt là theo họ, trong mọi tình huống nếu để chiến tranh xảy ra trên
Biển Đông và nhanh chóng trở thành cuộc xung đột trong khu vực lúc nào
thì sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng CSVN lúc đó. Do vậy Đảng CSVN
không có lựa họ nào khác là sự xuống nước và nhân nhượng, thậm chí họ
còn công khai xác định Việt nam sẵn sàng chấp nhận đánh đổi một phần
quyền lợi của mình để đổi lấy sự hòa bình. Mà theo họ lý giải rằng Việt
nam đã trải qua quá nhiều về chiến tranh, đã đến lúc cần hòa bình để
phát triển. Đáng tiếc quan điểm đầu hàng này của ban lãnh đạo Đảng CSVN
lại được đa số các đảng viên và một bộ phận không nhỏ người dân đồng
tình ủng hộ và cho rằng đây là sự lựa chọn đúng đắn.
Điều
đó cho thấy Việt nam đang hoàn toàn đơn độc, đây cũng chính là lý do vì
sao người ta thấy trong hơn hai tháng qua, kể từ ngày 2.5.2014 khi
Trung quốc đưa giàn khoan HD-981 vào sâu trong vùng biển thuộc lãnh hải
của Việt nam đến nay và kể cả việc Trung quốc liên tiếp đưa các giàn
khoan khác vào sauu vùng vịnh Bắc bộ mà các lãnh đạo đảng CSVN phản ứng
rất yếu ớt và chiếu lệ. Và diễn biến thực tế trên biển cho thấy, trong
khi giàn khoan HD-981 xâm phạm lãnh hải Việt nam, không những thế các
tàu vũ trang, bán vũ trang của Trung quốc đã có các hành động khiêu
khích như dùng vòi rồng công suất lớn phun nước và kể cả va, đâm. Song
các tàu Cảnh sát Biển, tàu Kiểm ngư vẫn kiên trì “tuyên truyền, giải
thích và thuyết phục” và cuối cùng là bỏ chạy. Kể cả việc Trung quốc bắt
giữ 13 ngư dân của Việt nam, những người được coi là cột mốc sống trên
biển theo chủ trương của chính quyền Việt nam, đến nay cũng không được
giải quyết một cách thỏa đáng theo thông lệ quốc tế. Điều đó cho thấy
lãnh đạo đảng và chính quyền Việt nam hiện nay đã trở nên bất lực và bế
tắc hoàn toàn trong vấn đề giải quyết vấn đề giàn khoan HD-981 nói riêng
và vấn đề tranh chấp trên Biển Đông nói chung, chứ đừng nói đến việc
đòi lại quần đảo Hoàng sa.
Hà Nội đã ‘đầu hàng’?
Ngày
07.7.2014 trong bài “Vietnam suffers from the wobbles” chuyên gia phân
tích thời sự Roger Mitton của tờ Myanmar Times, cho biết: việc Bắc Kinh
đưa giàn khoan HD981 tới vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã làm
“rúng động, sợ hãi” đồng thời “gây chia rẽ nghiêm trọng” trong giới
chức lãnh đạo hàng đầu của Việt nam. Bài báo cho biết: trong chuyến thăm
Việt Nam của Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì vừa qua, họ Ủy
viên họ Dương đã nói thẳng với ban lãnh đạo Việt Nam rằng Trung
Quốc sẽ tiếp tục “sử dụng mọi biện pháp có thể” để bảo vệ
chủ quyền và hoạt động của dàn khoan dầu, mà theo quan điểm
của Bắc Kinh, đang nằm hoàn toàn trong lãnh hải Trung Quốc. Đồng
thời ông này cũng cảnh cáo rằng Việt Nam sẽ hứng chịu nặng nề
nếu hợp tác với các nước khác, ví dụ như Hoa Kỳ, nhằm chống
lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc hay tham gia cùng
Philippines để khiếu nại lên Liên Hiệp Quốc. Không những thế, cũng
trong thời gian chuyến thăm Việt nam của họ Dương, Bộ Ngoại giao Trung
Quốc đã ra tuyên bố yêu cầu: “Việt Nam cần phải đình chỉ quấy
nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ thổi
phồng bất đồng, gây ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt
hậu quả các vụ bạo lực nghiêm trọng gần đây.”
Sau
sự giận dữ của Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì, cũng nguồn
tin trên đã cho biết ban lãnh đạo Hà Nội đã vội mở một cuộc họp
Bộ Chính trị bất thường ngay sau khi chuyến thăm của ông Dương kết
thúc. Và trong cuộc họp ấy đã xảy ra một cuộc tranh luận nảy lửa.
Và tác giả dẫn lời của Edmund Malesky, một chuyên gia quan sát Việt
Nam tại Đại học Duke, Hoa Kỳ khi cho rằng: “Ban lãnh đạo Việt Nam
bị giằng xé về quan hệ với Trung Quốc”. Theo đó tác giả cho
biết: “Trong nội bộ ban lãnh đạo Việt nam một nhóm, do Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu, lập luận rằng Hà Nội cần đứng vững
và tiếp tục vận động để Washington trợ giúp. Còn một phái
khác, do Tổng BT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng cầm đầu thì chống
lại chủ trương đó và kêu gọi duy trì chủ trương để làm sao Bắc
Kinh không bị bực bội thêm nữa, và kết quả là quan điểm của phe ông
Trọng đã thắng. Với kết quả là, một chuyến thăm dự tính của
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sang Hoa Kỳ trong tháng 7.2014
đã bị xếp lại.”
Cuối bài viết tác giả đã đi đến kết luận cho rằng “Về
cơ bản, Hà Nội đã đầu hàng. Sẽ không có thêm cuộc biểu tình
nào cả, cũng chẳng có chuyện khiếu nại gì lên Liên Hiệp Quốc,
không có diễn tập quân sự với Hoa Kỳ và cũng không đi đầu một
khối ASEAN thống nhất chống lại Bắc Kinh. Trong khi đó, Trung
Quốc đã đưa thêm một dàn khoan vào khu vực lãnh hải tranh chấp
và nói họ có kế hoạch đưa thêm khoảng 50 dàn khoan nữa trong
những năm tới. Và đó là điều Trung Quốc đã và đang làm”.
Điều gì sẽ xảy ra đối với chủ quyền của VN trên Biển Đông?
Những
phân tích trên đã cho thấy sự phân hóa rõ ràng ở mức sâu sắc trong ban
lãnh đạo Đảng CSVN về quan điểm trong vấn đề đối phó với áp lực bành
trướng của Trung quốc. Đáng tiếc là xu hướng lấy lòng Bắc kinh thông qua
việc duy trì chủ trương để làm sao Bắc Kinh không bị bực bội thêm
nữa của phe bảo thủ thân Trung quốc của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng lại
chiếm đa số áp đảo trong Bộ Chính trị. Vì người ta hy vọng với cái gọi
là sự “nhẫn nại và nhún nhường và cần thiết thì nhượng bộ” sẽ có khả
năng duy trì được hòa bình và sự tồn vong của Đảng CSVN. Nhưng họ đã
quên mất tham vọng bành trướng của chính sách bá quyền Đại Hán của nhà
nước Trung hoa từ ngàn đời nay và cho đến nay chính sách này đã quan trở
lại trong cái vỏ bọc trỗi dậy trong hòa bình của Đảng CSTQ.
Cần
phải khẳng định một cuộc chiến với quy mô lớn trên Biển Đông là điều
khó có thể xảy ra vì nó không cho phép đối với Trung quốc, một quốc gia
có nền kinh tế khổng lồ đang phát triển, mà việc khu vực Biển Đông lại
trấn giữ trên con đường vận chuyển nguyên liệu và hàng hóa xuất nhập
khẩu chủ yếu của họ. Đó là lý do không cho phép họ phiêu lưu để xung đột
có thể xảy ra, vì những cuộc tấn công đánh chiếm chủ quyền các đảo và
bãi ngầm của đối phương mang tính chiến thuật rất dễ trở thành các cuộc
xung đột lớn trên biển và trong khu vực. Tuy nhiên không có điều gì là
chắc chắn cả, khi mà mới đây nhất Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện
Quốc phòng Australia đã bày tỏ sự lo ngại của ông ta khi đặt vấn đề Hoa
kỳ và Trung Quốc có thể móc ngoặc trong vấn đề Biển Đông, mà theo ông
cho biết ông có cảm giác Trung Quốc đã móc ngoặc với Hoa kỳ, còn Hoa kỳ
thì sợ hãi việc phản ứng quá mạnh ở Biển Đông. Người Việt nam đã bị Hoa
kỳ bỏ rơi trong vấn đề mất quần đảo Hoàng sa sau cái bắt tay của Mao
Trạch Đông và Nixon tại Bắc kinh năm 1972, thì chả có gì có thể đảm bảo
điều đó sẽ không xảy ra một lần nữa.
Một trong những nhận định được đánh giá cao của các học giả quốc tế gần đây khi cho rằng “Việt nam sẽ mất trọn Biển Đông nếu như nội bộ ban lãnh đạo của Việt nam không thống nhất được với nhau” và
điều đó đã và đang xảy ra. Trong hoàn cảnh Việt nam hiện nay không có
chỗ dựa, không có đồng minh tin cậy ngoài kẻ thù của mình chính lại là
người đồng chí tốt Trung quốc, do vậy họ đang lúng túng không tìm thấy
lối thoát và điều đó đã buộc họ phải đi từ nhân nhượng này đến nhượng bộ
khác trước áp lực của Bắc kinh. Và thử hỏi điều gì sẽ xảy ra khi Trung
quốc triển khai rất nhiều các dàn khoan di động kiểu như giàn khoan
HD-981 trong vùng lãnh hải Việt nam? Và trong trường hợp xấu nhất, khi
Trung quốc tiến hành tập kích các đảo và bãi ngầm thuộc chủ quyền Việt
nam trên Biển Đông như họ đã từng làm ở Hoàng sa năm 1974, đảo Gạc ma
năm 1988 v.v… thì ban lãnh đạo Việt nam sẽ phải làm gì để gìn giữ và bảo
vệ chủ quyền? Hay là họ tiếp tục im lặng và nhân nhượng đầu hàng không
cho phép binh lính trên đảo nổ súng giữ đảo mà thay bằng lệnh cấm nổ
súng như họ đã từng làm năm 1988 ở đảo Gạc ma?
Điều
đó cho thấy với chính sách gặm nhấm từ từ từ nhiều chục năm nay của
Trung quốc, nay lấn một ít, mai lấn thêm một ít, bằng đủ mọi thủ đoạn
thì việc Trung quốc tiến hành tập kích cục bộ các đảo và bãi ngầm thuộc
chủ quyền Việt nam trên Biển Đông là điều đã, đang và sẽ tiếp tục xảy ra
là điều hoàn toàn có thực. Và từ đó vấn đề Việt nam mất hoàn toàn các
đảo và bãi đá ngầm trong khu vực Biển Đông là nguy cơ đã lộ rõ và gần
như chắc chắn. Ở đây chỉ còn là vấn đề thời gian nhanh hay chậm, nếu ban
lãnh đạo Việt nam không nhanh chóng có những điều chỉnh chiến lược quan
trọng.
Lẽ
đời, một khi chúng ta càng nhũn nhặn, nhân nhượng đi từ nhượng bộ này
đến nhượng bộ khác thì kẻ thù sẽ càng lấn tới. Trong vấn đề Biển Đông
hiện nay cũng vậy, một khi ban lãnh đạo Đảng CSVN và chính quyền của họ
đến lúc này cũng chưa phân biệt được rõ ai là bạn, ai là thù để có các
đối sách kịp thời có hiệu quả mang tính chiến lược để bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Nếu như vậy nguy cơ mất trọn Biển Đông
là điều hoàn toàn có thể.
Ngoảnh
sang nhìn cục diện chính trị của hai nước “đàn em” Lào và Campuchia
ngày hôm nay đã bị Trung quốc thao túng ra sao thì không thể không giật
mình. Bây giờ mới thấy họa mất nước của Việt nam sẽ rơi vào tay Trung
quốc đã cận kề lắm rồi. Và khi đó chuyện Việt nam mất Biển Đông lại là
chuyện nhỏ./.
Ngày 15 tháng 7 năm 2014
© Kami
* Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét