Dan Southerland,Tổng biên tập RFA — Việt-Long dịch thuật
Thuỷ quân lục chiến Mỹ đang giúp người Việt lên trực thăng cạnh tòa
đại sứ Mỹ- 29 tháng tư, 1975 -Courtesy of thefirearmsforum.com
Trở về ký ức khó quên
Tôi ở trên một trong những chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào cuối tháng tư 1975.
Làm phóng viên tường trình chiến tranh ở Việt Nam, Campuchia cho báo The
Christian Science Monitor trong khoảng đầu thập niên 1970, trước đó mấy
năm đã làm cho UPI tại Việt Nam, tôi không ngạc nhiên khi một cuốn phim
tài liệu mới về Việt Nam đã kéo tôi trở lại giòng thác ký ức, mà tôi
ước gì có thể xóa đi một số hình ảnh đó trong tâm tư. Những ngày cuối ở Việt Nam (Last Days in Vietnam), do nhà làm phim Rory Kennedy (con gái út của Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy, đạo diễn và đồng sản xuất hai tác phẩm điện ảnh Những bóng ma của Abu Ghraib (Ghosts of Abu Ghraib), nói về sự lạm dụng nhục hình ở trại tù Abu Ghrib do quân đội Mỹ cai quản, và Ethel, về
thân mẫu của bà, Ethel Kennedy), đã kể lại theo thời biểu một số chuyện
của nhiều cá nhân đằng sau cuộc di tản năm 1975 ở Sài Gòn.
Xoay như chong chóng
Là chứng nhân của sự kiện, tôi cần loại bỏ những thiên kiến và trải
nghiệm của riêng mình ngay từ đầu. Tôi đã không tin rằng Cộng Sản sẽ đem
biển máu vào Nam Việt Nam, như tin đồn đãi. Nhưng tôi quả có cảm thấy
nhiều người Việt miền Nam sẽ bị đối xử tệ hại dưới chế độ mới. Vì thế
tôi ở lại Sài Gòn vào những ngày cuối, cố gắng dàn xếp cho môt số người
Việt mà tôi quen biết để họ lên được những phi cơ quân sự hay dân sự,
khi những chiếc máy bay này còn bay được, hay giúp họ lên một trong
những chiếc trực thăng của thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ sắp cất cánh vào
giờ phút cuối cùng.
Quân CSBV chiếm phi trường Tân Sơn Nhứt, 30 tháng tư, 1975- AFP photo
Tôi sống ở Việt Nam khá lâu, đủ để biết thương cảm cho những người
Việt miền Nam mà tôi biết là bị mắc kẹt không lối thoát, quân đội Bắc
Việt vây quanh và đang nhanh chóng tiến vào. Tôi hiểu nỗi sợ hãi của một
số người và mối hy vọng ngây thơ của những người khác. Tôi đã, vào phút
cuối, dàn xếp được cho một cựu viên chức cao cấp của Việt Nam ra đi.
Nếu không ông ấy rất có thể đã mất mạng trong một cái chết chậm, từ từ,
trong một “trại cải tạo”. Tôi cũng giúp được một giáo sư đại học đi
thoát vào ngày cuối của cuộc chiến tranh, khi ông gọi tên tôi qua hàng
rào bao quanh Tòa Đại sứ Mỹ. Nhưng tôi đã không thành công với những
người quen biết khác. Tôi khuyên cô giáo dạy tiếng Việt của tôi hãy ở
lại, vì tôi cảm thấy chế độ mới có thể sẽ không làm gì ác đối với bà, và
vì người mẹ của bà cần có bà. Nhưng tôi không thuyết phục được một
người thông dịch viên làm việc với tôi ra đi, anh tin rằng sẽ không ai
trừng phạt anh, vì anh khá nghèo. Thật sai lầm!
Lòng nhân đạo
Vì thế một tác phẩm điện ảnh về những nỗ lực cứu nạn để đưa càng
nhiều người Mỹ và Việt ra khỏi nước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Và tôi
cần nói thêm là tôi biết một viên chức Mỹ đã lấy phép để tự mình trở
lại Sài Gòn, trái với quy tắc của bộ ngoại giao Hoa Kỳ, nhắm mục đích
giúp một tay cho nỗ lực cứu người vào phút cuối. Tôi còn nhớ một viên
chức tòa đại sứ đã lái xe buýt quanh các đường phố Sài Gòn để “gắp” lên
vào phút chót những người Việt sắp lâm vào nguy hiểm.
Nhưng tài liệu ấy có thêm một cách đáng kể vào những gì tôi đã biết
về những công cuộc cứu nạn mà nhiều lần đã phải tiến hành trong những
điều kiện tai hại? Những sự cố gắng ấy, cũng như cung cách lạ thường của
Graham Martin, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vào thời điểm đó, đã được ghi nhận
đầy đủ trong nhiều cuốn sách. “Những ngày cuối ở Việt Nam” tiết lộ những điều không gây kinh ngạc về những sự kiện này.
Ẩn chứa trong cuốn phim là thông
điệp: ‘Bất cứ khi nào liên can đến một cuộc chiến, chúng ta có trách
nhiệm với những người phải đối diện mối nguy của Thần Chết nếu họ bị bỏ
lại phía sau’
Dan Southerland
Nhưng cuốn phim thật thành công trong việc nhân đạo hóa câu chuyện
qua những cuộc phỏng vấn nhiều người Mỹ có dự phần và một số người Việt
Nam thoát kịp hay bị bỏ lại.
Khung cảnh hoảng loạn ở Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn trong 24 giờ cuối
của cuộc chiến – được dựng lại một cách sống động bằng những đoạn phim
và phỏng vấn các viên chức Hoa Kỳ, các thuỷ quân lục chiến, phi công
trực thăng, cùng một số người Việt- đã rung lên thật sống thực trong
tôi, vì tôi có mặt ở nơi đó, vào ngay lúc đó.
Đại sứ Martin đã miễn cưỡng nhìn nhận rằng sau khi quân đội Nam Việt
Nam sụp đổ nhanh chóng ở một số tỉnh thành, kể cả Đà Nẵng vào ngày 30
tháng 3, 1975, việc Sài Gòn thất thủ là điều không thể tránh khỏi.
Do đó, một số viên chức tòa đại sứ, hiểu ra rằng Đại sứ Martin sẽ
không chấp thuận, đã bí mật đưa những người Mỹ và Việt Nam có thể gặp
nguy hiểm ra khỏi xứ sở. Martin đã không biết tất cả sự thật cho đến
những giờ cuối trong ngày cuối cuộc chiến tranh, khi chính ông thấy phi
cơ và trực thăng không thể đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt vì quân Bắc
Việt pháo kích. Martin cũng sợ rằng công khai nhìn nhận kế hoạch di tản
người Mỹ quá sớm sẽ gây hoảng loạn giây chuyền khiến người Việt Nam cản
trở chiến dịch di tản. Nhưng hoảng loạn đã lan truyền khắp nước, kể cả
Sài Gòn.
Những tấm gương
Điềy gây ấn tượng cho tôi là cuốn phim đã ghi nhận thật hay những nỗ
lực của Hải quân Hoa Kỳ để đem hằng ngàn người di tản Việt Nam trên
những chiếc tàu hải quân Việt Nam ra khơi. Đến nay tôi cũng đã không
biết được hết về những thách đố với tàu USS Kirk, chiến hạm Hoa Kỳ trở
thành điểm đến của những chiếc trực thăng Việt Nam quá tải chở những phi
công cùng cả gia đình của họ trốn chạy khỏi xứ. Một trong những cảnh
gây thương cảm nhiều nhất của tác phẩm điện ảnh này là cảnh một phi công
Việt Nam đưa gia đình anh cùng nhiều người khác ra khơi trên một chiếc
trực thăng vận tải CH-47 Chinook, bay lơ lửng sát trên phần đuôi tàu
Kirk, để những người đàn ông, đàn bà, trẻ em, và cả một bé thơ 1 tuổi
trong “phi hành đoàn” của anh đến được vòng tay của thủy thủ đoàn chiến
hạm Kirk. Rồi người phi công đã chạm xuống mé tàu chiến cho chiếc trực
thăng “lăn” sang bên phải rớt xuống biển, và anh phóng mình ra khỏi cửa
tàu xuống mặt nước, an toàn!
Thủy thủ tàu USS-Kirk đang ra hiệu cho chiếc CH-47 của VNCH đáp vào boong tàu – Photo courtesy of Hugh Doyle, Apr 29, 1975
Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage, khi đó 30 tuổi, sĩ
quan cố vấn của hải quân Việt Nam, về sau đảm nhiệm những chức vụ cao
cấp trong Bộ quốc phòng và Bộ ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống
Reagan và Bush.
Armitage làm việc chặt chê vời hạm trưởng tàu Kirk cùng các sĩ quan
hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt Nam cùng với mấy
chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy khỏi Việt
Nam. Đài Truyền thanh Quốc gia (NPR của Hoa Kỳ) trong phóng sự riêng về
chiến hạm USS Kirk, đã viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người
chen chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích
được, tàu khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một
phép lạ khi đoàn tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đã vượt được cả
ngàn dặm về hướng đông để đến được bờ bến Philippines an toàn.
Thông điệp về trách nhiệm
Đại sứ Martin, không muốn đầu hàng trong cuộc chiến đấu của ông, vào
giờ cuối đã gia hạn cuộc di tản để đưa đi được càng nhiều người Việt Nam
càng tốt, đã được đối xử công bằng. Henry Kissinger, được nói đến ngắn
ngủi trong phim, theo quan điểm của tôi có lẽ đã được đối xử quá mức
công bằng. Kissinger là người đã thương lượng cho được Thỏa ước Hòa bình
1973 đầy khuyết điểm, bảo đảm cho Bắc Việt sự hiện diện ở Nam Việt Nam
sau ngưng bắn. Tổng thống Gerald Ford được tán dương nhờ đã nhìn nhận –
sau khi ông được thông báo đầy đủ nhưng quá muộn trong cuộc chơi – rằng
Hoa Kỳ cần phải di tản những người Việt miền Nam từng làm việc chặt chẽ
với Hoa Kỳ trong chiến tranh.
Mọi tòa đại sứ Mỹ, theo quy định, đều có kế hoạch di tản. Nhưng kế
hoạch của tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn không ấn định việc di tản những
người Việt cộng tác chặt chẽ với Hoa Kỳ.
Cuốn phim ngụ ý một thông điệp, được nhà làm phim chuyển lại trong một cuộc phỏng vấn gần đây: Bất
cứ lúc nào liên can đến một cuộc chiến tranh, chúng ta đều có trách
nhiệm với những người đối diện nguy cơ của Tử thần nếu họ bị bỏ lại đằng
sau. ****************************************************************
Dan Southerland
Dan Southerland là Tổng biên tập của đài Á Châu Tự Do, Radio Free
Asia. Ông đã trải qua gần 20 năm làm công việc phóng viên nước ngoài tại
châu Á, tại Tokyo, Sài Gòn, Hong Kong và Bắc Kinh, và là Trưởng Văn
phòng báo Washington Post tại Bắc Kinh từ 1985 đến 1990, tường thuật vụ
đàn áp tại Thiên An Môn năm 1989.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét