Bài 2: Cuộc Kháng Chiến Chín Năm Giành Độc Lập Từ Pháp
Trần Quí Cao
15-04-2015
Như đã phân tích trong Bài 1: Đặt Vấn Đề và Cuộc Cách Mạng Tháng Tám,
nếu không có cuộc CMT8 thì rất có thể các đảng phái khác nhau, các
thành phần khác nhau của dân tộc VN đã đoàn kết trên một mặt trận đối
phó với Pháp. Hoàn cảnh đó, thực lực đó, Việt Nam có thể giành được độc
lập mà không phải trả giá bằng cuộc chiến 9 năm. Nhà sử học và nhà hoạt
động văn hóa chính trị đáng kính của Việt Nam, người từng nghiêng về ủng
hộ cuộc kháng chiến 9 năm, ông Hoàng Xuân Hãn, nhớ lại: “Chiến
tranh sở dĩ xảy ra vì bên ngoài ta không thuyết phục được Pháp tôn trọng
chúng ta hơn, bên trong ta không dẫn dắt được dân chúng đấu tranh hòa
bình”.
Dù sao cuộc chiến cũng đã nổ ra. Truyền thống chống ngoại xâm được hun
đúc ngàn năm đã biến Việt Nam thành một chiến trường toàn diện.
1) Trên toàn lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng có thể trở thành chiến trường
2) Các thành phần dân tộc đồng loạt xung phong lao ra trận. Cả đất
nước xếp lại mọi sinh hoạt đời thường để cầm vũ khí xông vào chém giết.
Đa số các gia đình người Việt đều có người tham gia. Từ những nông
dân chân lấm tay bùn, người thợ lam lũ cực nhọc trong nhà máy… cho tới
ông thầy giáo dạy chữ, vị bác sĩ cứu người, các đại điền chủ điền sản
bạt ngàn, các ông quận trưởng, đô trưởng đầy đủ tri thức và tài năng
quản trị, các nhà chuyên môn trong mọi mọi ngành nghề… Tất cả bỏ hết, bỏ
hết quyền lợi riêng tư của gia đình và cá nhân, đem cả gia đình lao vào
máu lửa. Họ không biết chủ nghĩa Cộng Sản, chỉ theo tiếng gọi Độc Lập
cho Tổ Quốc, Hạnh Phúc cho Nhân Dân mà:
Người sau kẻ trước lao vào giặc,
Lưu lại ngàn thu một giống nòi (thơ Hoàng Cầm)
Đối với rất nhiều người trong họ, cuộc kháng chiến chống Pháp giành
Độc Lập là cuộc chiến thiêng liêng, lý tưởng, là lẽ sống cao nhất của
cuộc đời.
Trong khi rất kính trọng tấm lòng, nhân cách của đa số con người tham
gia kháng chiến, trong khi nghiêng mình trước những hy sinh quá lớn lao
mà họ tự nguyện chấp nhận vì công cuộc giành độc lập cho tổ quốc,
Tôi vẫn thường tự hỏi:
1) Ai chịu trách nhiệm trước sự hao tổn quá lớn về sinh lực, nguyên
khí của đất nước? Không chỉ là trách nhiệm trong khi tiến hành cuộc
chiến khi nó đã bùng nổ, mà trước đó và sâu sắc hơn, là trách nhiệm đẩy
toàn dân vào cuộc chiến đó!
2) Có phải không còn cách nào để đoàn kết toàn dân đấu tranh chính trị, ngoại giao với Pháp?
3) Tại sao trong khi vận mệnh nền độc lập non trẻ của nước nhà đang
“ngàn cân treo sợi tóc” lại tiến hành loại bỏ không khoan nhượng những
đảng phái khác cũng đang hoạt động cùng mục tiêu bảo vệ nền độc lập đó?
Tôi tin rằng nhiều người Việt Nam cũng thắc mắc với những câu hỏi như
trên hay những câu tương tự. Trả lời những câu hỏi đó không phải là
bươi móc để trả thù, mà là để hướng tới xây dựng tương lai. Không thể
xây dựng tương lai với quyết tâm và tinh thần mạnh mẽ vượt mọi khó khăn,
nếu không biết rõ quá khứ.
Những câu hỏi này bị cấm đoán hay chưa từng được nêu lên rộng rãi
trong dân chúng hay các giới quan tâm nhằm thảo luận trong tinh thần
thực sự khoa học và cầu thị. Chúng phải được trả lời bởi tri thức của
những nhà chuyên môn công tâm. Không thể tìm câu trả lời trong tinh thần
“minh họa”, “chứng minh” cho một đường lối, một chính sách của đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Trở lại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc chiến mà đảng Cộng
Sản Việt Nam tự hào là đã mở đầu và lãnh đạo toàn dân đi tới chiến
thắng. Cuộc chiến bắt đầu từ lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tháng 12
năm 1946 của ông Hồ Chí Minh và kết thúc bằng trận chiến Điện Bên Phủ mà
phần bại thuộc về đội quân viễn chinh Pháp. Qua cuộc chiến đó, đảng
Cộng Sản Việt Nam đã đem lại những thành quả gì cho dân tộc đền đáp sự
ủng hộ máu xương của dân chúng?
Hậu Quả của Cuộc Chiến:
1) các ước lượng cho thấy khoảng ba triệu người Việt Nam ưu tú đã nằm xuống.
Hãy nhớ, trong ba triệu con người đó, nhiều người có kỹ năng quản trị,
có chuyên môn khoa học kỹ thuật, có nền móng đạo đức, có tri thức vững
chắc để xây dựng và tổ chức cuộc sống cộng đồng, cuộc sống đô thị văn
minh giàu đẹp. Đó là cái vốn nhân lực rất quí giá để xây dựng và phát
triển tổ quốc lâu dài. Ngoài ra, đại đa số trong ba triệu con người đó
đang trong lứa tuổi tươi đep và mạnh mẽ nhất của cuộc đời.
2) Cả nước biến thành chiến trường trong suốt chín năm. Thời gian chiến tranh gần gấp đôi thời gian thế chiến thứ 2. Công nghiệp, nông nghiệp bị tàn phá rất rất nặng nề.
3) Đạo đức bị băng hoại. Truyền thống dân tộc bị tàn phá
4) Hận thù được gieo rắc và nuôi dưỡng.
5) Nước Việt Nam chính thức bị chia đôi. Lịch sử tương tàn Trịnh-Nguyễn tái lập, với mức độ tàn khốc gấp rất nhiều lần.
Dọc theo 9 năm chiến tranh, trong khi máu đang chảy thành sông, xương
đang chất thành núi, thì những người lãnh đạo kháng chiến lại tổ chức
cuộc thảm sát man rợ dưới chiêu bài Cải Cách Ruộng Đất.
Tại sao gọi là thảm sát man rợ?
1) Gần 180 ngàn con người bị giết chết trên một diện tích khoảng 20
ngàn km vuông, trên một dân số khoảng 5 triệu người (vùng giải phóng
miền Bắc), trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.
2) Việc giết người được quyết định bởi những người không nắm tình
hình mà chỉ bị sai khiến bởi chỉ tiêu của cấp trên về số người phải bị
giết.
3) Việc giết người được thi hành trước đám đông cuồng nhiệt, mà lòng
căm thù và thú tính say máu chém giết bị kích động có chủ đích.
4) Việc giết người được tiến hành ngay lập tức, theo cách bắn sau
lưng, hay đào hố sâu chôn nạn nhân cho ló đầu lên để con trâu kéo cày
ngang cho tới khi chết!
5) Việc giết người được tiến hành trước sự chứng kiến của dân làng, trong đó có nhiều trẻ em.
(Hãy so sánh với cách thức xử tử con tin mà IS tiến hành và quay phim
tung lên mạng hiện nay, để cảm nhận mức độ man rợ của những người lãnh
đạo Cải Cách Ruộng Đất đối với đồng bào của mình 60 năm trước)
Dọc theo 9 năm chiến tranh, hận thù dân tộc bị đẩy lên cao độ. Dân
tộc bị phân chia làm ta và địch. Không có thành phần đứng giữa hay đứng
ngoài. Người nào không cầm súng chiến đấu trong phe ta, người đó là kẻ
địch. Người Việt không được quyền sống hòa bình và yên ổn. Người Việt
không được quyền làm thường dân, hể sống trong vùng Pháp kiểm soát thì
đương nhiên là theo Pháp. Người Việt không được quyền sống theo tôn giáo
của mình, giáo dân có khuynh hướng được xếp vào hàng ngũ địch.
Dọc theo 9 năm chiến tranh, càng về sau, mức độ lệ thuộc của Việt Nam
vào nước Tàu Cộng Sản càng sâu. Cố vấn Tàu có ảnh hưởng lớn trên giàn
lãnh đạo tối cao của Việt Nam. Nếu gọi cố vấn Tàu có quyền hành lớn cũng
không sai. Những giọt nước mắt của ông Hồ chí Minh khi xin lỗi đồng bào
về hậu quả Cải Cách Ruộng Đất, cùng những lập luận lan truyền rằng Việt
Nam tiến hành CCRĐ là do áp lực của Tàu, dù có mục đích biện minh và
chạy tội, cũng cho thấy Việt Nam lệ thuộc Tàu tới chừng nào!
Cuối cuộc chiến, khi đất nước bị phân hai, rất nhiều người Việt không
chấp nhận sống dưới chế độ miền bắc Cộng Sản. Do chính quyền Cộng Sản
lúc đó chưa hoàn toàn kiểm được tình hình miền Bắc, và việc thi hành
hiệp định Geneve đang đặt dưới sự giám sát của quốc tế, chính quyền phải
để cho một phần số dân này di cư vào miền nam Tự Do. Tuy nhiên, chính
sách bắt ép dân ở lại vẫn được tiến hành không chính thức, bao nhiêu con
người không đi được bị giết, bị bạc đãi, bị phân biệt…? Mầm mống của
lòng hận thù nghiệt ngã giữa những người Việt với nhau đã chính thức
trỗi dậy thành cây to, chuẩn bị cho cuộc chiến còn khủng khiếp hơn nhiều
lần sắp tới.
Rất nhiều gia đình Việt Nam có người tham gia cuộc chiến 9 năm. Nhiều
người trong số đó trãi thêm cuộc chiến 20 năm “Chống Mỹ Cứu Nước” để
rồi sau năm 1975 tự dằn vặt không nguôi. Tấm lòng yêu nước bằng truyền
thống và tinh thần chống ngoại xâm của của những người tham gia cuộc
chiến thực đáng kính trọng. Khi đối chiếu tấm lòng của họ, sự hi sinh
của họ với thực tế thoái hóa trầm trọng trên hầu như tất cả các mặt của
đất nước hôm nay, lòng tôi lại dâng niềm thương cảm và đau xót.
Phóng tầm mắt sang các lân bang có cùng cảnh ngộ:
Phi Luật Tân độc lập năm 1945; Indonesia độc lập năm 1945; Ấn Độ độc
lập năm 1947; Mã Lai độc lập năm 1957; Thái Lan không chịu hoàn cảnh
thuộc địa…
Những nước này độc lập mà không phải trãi qua một cuộc chiến khốc
liệt nào, đất nước không phải chia cắt, dân tộc đoàn kết xây dựng đất
nước chớ không hận thù, trốn chạy và truy sát lẫn nhau, nền dân chủ ngày
càng lớn mạnh, dân chúng được hưởng các quyền tự do căn bản của cuộc
sống văn minh, làm bệ khai phóng cho sự phát triển tổ quốc một cách hài
hòa với phát triển cá nhân… Các nước này, hiện nay có mức phát triển
kinh tế cao hơn Việt Nam, có GDP/đầu người cao gấp Việt Nam ba bốn lần…
Cuộc kháng chiến 9 năm đã nên hay đã không nên nổ ra?
Do đó, trong khi những câu hỏi ở đầu chương này chưa được công khai
nêu lên trong xã hội, tôi bắt buộc phải có những câu hỏi khác:
Khi quyết định đưa dân tộc vào một cuộc chiến tranh lớn và lâu dài tới như vậy, những người lãnh đạo cuộc chiến này:
1) Họ thực lòng yêu nước chống ngoại xâm hay lợi dụng lòng yêu nước
chống ngoại xâm để chiếm độc quyền thống trị? Họ có yêu quí đất nước
không? Có trân trọng mạng sống của người dân không? Có trân trọng tài
nguyên, nguyên khí của dân tộc để dành cho sự phát triển lâu dài không?
2) Họ có kiến thức chính trị đủ rộng và đủ sâu để nắm bắt khuynh
hướng chính trị của thế giới, thời cơ quốc tế, vận hội quốc gia, thực
lực và tiềm năng dân tộc mà vạch ra hướng đi có lợi nhất cho tổ quốc hay
không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét