Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Dân oan kiện, Tòa xử càng oan thêm: Một phiên toà điển hình về vi phạm Luật tố tụng hành chính

Danquyen

Ông Nguyễn Xuân Ngữ – sinh năm 1946 là CCB – Cán bộ hưu trí – gđ liệt sĩ.

Năm 1960, ông đã tham gia đội ngũ của giai cấp công nhân với phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” tuổi trẻ bồng bột và hoang tưởng “tất cả để xây dựng thành công XHXN Miền Bắc”
Năm 1966, ông đi chiến trường miền Nam.
Chiến dịch HCM năm 1975 ông cùng đoàn quân về giải phóng Sài Gòn.

Năm 1997 về hưu có mua hơn ba công đất tại khu phố Mỹ Thành, phường Long Thạnh Mỹ, lập vườn làm trang trại để mong sống thanh đạm tuổi già.

Người cựu chiến binh ấy đó bị chính quyền quận 9 TP.HCM lợi dụng dự án Công nghệ cao (CNC) cưỡng chế, phá tan nát trang trại trị giá vài chục tỉ đồng. Rồi đưa gia đình ông vào tạm cư gần năm năm nay tại khu tạm cư trá hình, người bị tạm cư thường ví đây là “Khu dồn dân – ấp chiến lược” chỉ khác một điều không có bốt canh và lính gác, nhưng có điện sáng xung quanh rào kẽm gai, hàng ngày có 5 đến 7 bảo vệ thay nhau canh gác mà thôi ?!!…
Khu đất này vốn là trại nuôi heo Phước Long của một chủ tư nhân thời của chế độ cũ. Nay chính quyền quận 9 (CQQ9 ) dựng nên các phòng trọ chật hẹp để cho công nhân và sinh viên độc thân thuê ở mang tính tạm bợ. Nay CQQ9 dùng để dồn một số hộ dân sau khi CQQ9 đă phá hết nhà cửa, chiếm hết đất đai, tài sản để trù dập, trả thù những gia đình đã khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của họ, và những CCB đã từng tham gia chiến đấu qua hai cuộc kháng chiến, cùng với một số gia đình có công với CM.
Chúng tôi nghe ông Ngữ trình bày và một số hình ảnh làm bằng chứng ông Ngữ đưa đến phiên tòa:
Do thấy trang trại của ông bề thế, với mô hình V.A.C hàng năm có thể thu hoạch hoa lợi hàng tỷ đồng, nên lãnh đạo chính quyền Q9 muốn chiếm đoạt nguyên vẹn bằng những hành vi, và nhiều thủ đoạn gian dối, xảo trá: Bịa đặt, vu khống, lừa gạt, gạ gẫm, dụ dỗ, thậm chí còn gợi ý muốn ông phải hối lộ 2 tỷ… nhằm chiếm đoạt bằng được tài sản này của ông Ngữ.
Ông Ngữ không chịu giao trang trại của mình một cách vô lý. Với lý do như ông trình bày với tòa, “cũng như trước đây trong nhiều đơn khiếu nại, tố cáo hợp lệ, đơn kêu oan, kêu cứu, tôi đã gửi đến nhiều cơ quan hữu trách từ cấp quận đến Trung ương – và trước phiên toà xét xử hôm nay tôi nói rõ:
Vào những năm 1966 khi tôi bước chân vào chiến trường Miền Nam tham gia chiến đấu cho đến ngày vào giải phóng Sài Gòn, là đi vào chỗ chết nhiều hơn hy vọng sống. Nói một cách khác, tôi đã giành trọn tuổi trẻ của tôi và đã chấp nhận hy sinh.. để góp phần giành chính quyền, giữ được chính quyền như hiện nay.”
Ông Ngữ nói rằng tài sản của Ông Ngữ có được vừa qua, là nguồn sống lâu dài của gia đình và của các con ông. Nhất là đối với ông Ngữ năm nay đã 72 tuổi, sau hơn 50 năm đi làm việc cho nước, cho dân sức tàn, lực kiệt. Với vài triệu lương hưu thì trang trại này là chỗ dựa để sống những năm tháng cuối đời.
Ông Ngữ trình bày: Trang trại của ông là tài sản rất lớn đối với một gia đình CCB già. Nhưng nếu chính quyền Q9 thu hồi đúng chủ trương của cấp có thẩm quyền, đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật hiện hành ông Ngữ sẵn sàng giao ngay.
Trong một lá đơn khiếu nại năm 2004 gửi UBQ9. ông Ngữ đã viết “Đề nghị UB quận cho biết nhà tôi có nằm trong quy hoạch không? Nếu có nằm vào quy hoạch phải giải tỏa thì đưa ra những căn cứ pháp lý chứng minh, nhanh chóng lập trình tự, thủ tục thu hồi đất để ông bàn giao… nhằm sớm ổn định cuốc sống” nhất là đối với việc học tập của các con ông, và bản thân ông đang mang trong mình bệnh nan y do hậu quả của nhiều năm sống và tham gia chiến đấu tại chiến trường Miền Nam trong thời kỳ k/c chống Mỹ .
Nhưng đề nghị của ông Ngữ, chính quyền quận 9 (CQQ9) làm ngơ không hồi đáp. Không đưa ra bản đồ quy hoạch. Không có một văn bản pháp lý nào chứng minh đất nhà ông Ngữ nằm vào quy hoạch khu công nghệ cao (CNC) phải bị thu hồi. Nên ông chưa giao trang trại nguyên vẹn của ông cho CQQ9.
Giống như chuyện “ không ăn được thì đạp đổ ” .
Ngày 3 tháng 4 năm 2009, CQQ9 lợi dụng quyền lực, ngang nhiên ban hành quyết định cưỡng chế hành chính số 13/QĐ-UBND cưỡng chế nhà ông Ngữ.
Ông Ngữ viết đơn kêu cứu, đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hữu trách: gửi lănh đạo quận 9, quận 9 làm ngơ. Gửi UBND TPHCM , TP im lặng. Ông Ngữ gửi đơn đến các cơ quan hữu quan cấp trên .
Lời kêu cầu của Ông Ngữ đă thấu đến Trung ương: Chủ tịch nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hai lần gửi văn bản chỉ đạo CTUBND TPHCM giải quyết việc khiếu nại cho ông Ngữ. Nhưng UBND TPHCM, có lẽ cũng chỉ coi như miếng giấy lộn vứt ven đường. Ông Ngữ – người cựu chiến binh già càng ân hận với những năm tháng tuổi trẻ bồng bột, hão huyền.
Cùng với những văn bản vừa nêu trên còn có nhiều văn bản khác, như Văn bản của: Đại biểu Quốc hội Trần Thị Quốc Khánh đã chất vấn Thủ tướng CP trong một phiên họp Quốc hội của kỳ họp QH12, nói về việc Q9 tpHCM 8 – 9 năm qua không giải quyết khiếu nại việc CQQ9 thu hồi đất trái pháp luật của hộ ông Ngữ .
Ngoài ra còn có Đại biểu QH giáo sư Nguyễn Minh Thuyết. Đại biểu QH Ngô Minh Hồng Đoàn ĐBQH tpHCM… và hàng trăm phiếu chuyển, giấy báo tin của các cơ quan TW: Các UB của QH, các Ban của TW Đảng, của các cơ quan thuộc Chính phủ… “đá xuống” tp HCM. Nhưng tất cả đều vô tác dụng đối với UBTPHCM .
Ngoài các cơ quan có thẩm quyền của Quốc hội, Nhà nước, TW Đảng, Chính phủ, ông Ngữ còn được nhiều cơ quan Báo chính thống đã viết bài đăng tin ra trước công luận…, Đài Truyền hình Việt Nam nhiều buổi phát trên các chương trình Thời sự, Bản tin bất động sản, Cải cách hành chính… đề cập tới việc UBND tpHCM và CQQ9 không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật trong việc thu hồi đất và lấy đi tài sản nhà ông Ngữ .
Ông Ngữ cũng đưa ra trước HĐXX tập văn bản những ý kiến của gần 20 văn phòng Luật sư trong nước đều khẳng định việc CQQ9 ban hành quyết định cưỡng chế nhà ông Ngữ và các hành vi liên quan đến QĐ số 13… là trái quy định pháp luật .
Trong khi việc khiếu nại những hành vi sai trái pháp luật của CQQ9. Nhất là việc ban hành quyết định cưỡng chế nhà ông Ngữ số 13/QĐ-UBND ngày 3/4/ 2009. Chính quyền quận 9 và UBND tpHCM chưa giải quyết.
Ngày 20 và ngày 21/5/2009 CQQ9 huy động khoảng trên 3 trăm CB,VC,CA trong quận 9 đến đuổi cha, con ông Ngữ ra khỏi nhà đất, tàn phá san bằng trang trại, và lấy đi một số tài sản của ông Ngữ mang đi, để chiếm đất.
Ngày 30/ 12/ 2009 ông Ngữ gửi đơn khởi kiện đến tòa án quận 9.
Hơn một tháng sau, bà Trần Thị Nhung thẩm phán TAQ9 (hiện nay là chánh án TAQ9) người thụ lý đơn ra Thông báo 962/TB-TA đề ngày 01/02/2010” trả đơn khởi kiện của ông Ngữ với lý do: “ yêu cầu khởi kiện đối với QĐ số 13/QĐ-UBND ngày 03/4/2009 của chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 là không thuộc thẩm quyền của tòa án”
Sau khi nhận Thông báo 962/ Ông Ngữ khiếu nại. Thẩm phán Trần Thị Nhung lại ban hành QĐ 67/QĐ/22010/QĐ-TA, có nội dung
“ V/v giải quyết khiếu nại về việc trả đơn khởi kiện đề ngày 01/02/2010” :
“… Đối với yêu cầu hủy quyết định số 13/QĐ-UB ngày 3/4/2009 của UBND Q9 về việc cưỡng chế hành chính trái pháp luật và yêu cầu bồi thường… do việc cưỡng chế trái pháp luật gây ra không phải là đối tượng khởi kiện để yêu cầu toà giải quyết… toà án nhân dân quận 9 trả lại đơn khởi kiện hành chính cùng các giấy tờ kèm theo…”
Kể từ khi nộp đơn khởi kiện (30/12/2009) đến nay (4/2014) hơn bốn năm (52 tháng) với 5 lần thay đổi thẩm phán.
Khi phiên toà tạm nghỉ, chúng tôi hỏi ông Ngữ vì sao có việc kéo dài thời gian thụ lý chậm đưa vụ kiện ra xử chắc phải có lý do nào đó? Ông Ngữ cho biết :
Cuối năm 2005 CQQ9 tính giá trị bồi thường tài sản nhà ông Ngữ. Ông Nguyễn Văn Út trưởng ban bồi thường giải phóng mặt bằng cấu kết với bà thẩm phán Trần Thị Nhung ngụy tạo ra hai (2) tờ giấy biên nhận giả: góp tiền mua đất chung với ông Ngữ tại nhà, đất số 166/6 của ông Ngữ nhằm bắt ông Ngữ chia tiền bồi thường…
Ông Ngữ kiện sự việc này ra toà. Cũng bà thẩm phán Trần Thị Nhung xử sơ thẩm lần đầu, ông Ngữ kháng án bản án lên Toà án Thành phố. TATP xử trả bản án về TAQ9 xử lại. Tiếp sau, ông thẩm phán Đặng Minh Chính xử sơ thẩm lần thứ hai, cũng lại bị trả về TAQ9 xử lại… Thế là phải qua 6 phiên toà xét xử (3 phiên ST + 3 phiên PT) cuối cùng ban bồi thường và toà án quận 9 thua kiện .
Do không ăn chia được tiền bồi thường chánh án Trần Thị Nhung và phó chánh án TAQ9 Đặng Minh Chính có dấu hiệu cay cú tìm mọi cách trù dập, trả thù ông Ngữ
Chính vì vậy mà việc ông Ngữ khởi kiện bị TAQ9 gây khó khăn hơn bốn năm qua, bà Thẩm phán (nay là chánh án) Trần Thị Nhung tìm mọi lý do để trả đơn khởi kiện, cố ý muốn dìm vụ kiện này. Nên mới có việc 5 lần thay đổi thẩm phán.
Ngày 06/1/2014 TAQ9 mở phiên toà đầu tiên xử vụ ông Ngữ kiện quyết định cưỡng chế hành chính số 13 (viết gọn: QĐ13) thẩm phán chủ tọa phiên toà:
Sau phần công bố mở phiên toà và giới thiệu các thành viên HĐXX, Luật sư (LS) phát hiện Chủ tọa phiên toà (CTPT) Ông Đặng Minh Chính là anh ruột bà Đặng Thị Hồng Liên hiện là CTUBNDQ9 nên đề nghị thay đổi và đại diện VKSND tham gia tố tụng tại phiên toà nhất trí phải thay đổi thẩm phán (Phiên toà hoãn).
Ông Ngữ cho rằng đây là hành vi của bà chánh án Trần Thị Nhung trả thù ông Ngữ một cách quyết liệt, trả thù đến cùng, vì trước đó năm 2013 ông Ngữ đã gửi đơn đề nghị thay đổi ông Chính, nhưng bà Nhung lợi dụng chức vụ quyền hạn ra quyết định bác đề nghịcủa ông Ngữ. Vì bà chánh án Trần Thị Nhung vẫn không quên vụ đòi ăn chia tiền bồi thường tài sản nhà ông Ngữ nhưng bị thua kiện cùng với ban bồi thường .
Ngày 28/3/2014, Toà sơ thẩm tại Toà án nhân dân Q.9 mở phiên toà hành chính xử ông Nguyễn Xuân Ngữ về vụ kiện chính quyền quận 9. Những nội dung kiện ông Ngữ nêu đề nghị toà xử:
A .Yêu cầu ṭa xét xử trên cơ sở quy định của pháp luật, và các chứng cứ thực tế, cùng với căn cứ những lời trình bày nội dung sự việc. Đề nghị Toà thu hồi hủy bỏ quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UBND, đề ngày 03/4/2009 do phó chủ tịch Nguyễn Văn Thành ký thay CT UBND Q9.
B. Đề nghị toà xử: Buộc UBNDQ9 phải hoàn trả lại ông Ngữ toàn bộ diện tích đất 3601 m2 của gia đình ông Ngữ. Hiện UBNDQ9 không sử dụng vào khu Công nghệ cao, mà bán, hoặc cho Cty TNHH tư nhân T.C xây dựng mấy gian nhà kho chứa hàng tạp vụ kinh doanh, diện tích đất còn lại bỏ hoang (chủ yếu để chiếm đất và xóa sạch dấu tích trang trại bề thế của ông Ngữ)
C. Khôi phục lại hiện trạng khu nhà vườn, trang trại như khi chưa cưỡng chế trái pháp luật và bồi thường thiệt hại tiền thu nhập từ sản phẩm hoa lợi mỗi năm một tỷ. Hoặc bồi thường theo quy định tại Điều 70. Luật XD: Nguyên tắc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng công trình .
“ 1. Việc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Đối với nhà ở của tổ chức, cá nhân phải giải quyết chỗ ở mới ổn định, có điều kiện chỗ ở bằng hoặc tốt hơn chỗ ở cũ, hỗ trợ tạo việc làm, ổn định cuộc sống cho người phải di chuyển …”
Đề nghị việc bồi thường tách ra để kiện sang một vụ án khác.
D. Đề nghị xử buộc UBNQ9 phải chuyển về trả lại ông Ngữ hai con Gấu Ngựa nuôi hợp pháp mà đám công lực ngang nhiên bắt đưa đi trong ngày cưỡng chế trái pháp luật và trả tiền thu từ khách tham quan, mỗi tháng một triệu đồng.
E. Buộc CT, phó CT UBNDQ9 công khai xin lỗi gia đình ông Ngữ trên các phương tiện thông tin, báo và đài truyền hình TW và Tp HCM.
                     Nội dung diễn biến phiên tòa xử ngày 28/3/ 2014 .
Sau phần thủ tục…
Ông Ngữ đề nghị :
- Thứ nhất ông Ngữ đã có đơn đề nghị thay đổi thư ký phiên tòa Trần Thị Hồng Cúc , nên trong phiên tòa hôm nay vẫn giữ nguyên yêu cầu thay đổi thư ký Trần Thị Hồng Cúc vì thái độ ngạo nghễ , hách dịch không tôn trọng người dân .
- Thứ hai Ông Ngữ đã nhiều lần gửi đơn đề nghị đến TA triệu tập những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đến trước khi khai mạc phiên tòa .
Trong đó có yêu cầu triệu tập bà Trần Thị Nhung chánh án TAQ9 để làm rõ việc 2 tờ biên nhận giả mạo và ông phó chánh án TAQ9 Đặng Minh Chính để giải trình về việc ông đã xử bản án không khách quan và còn dẫn đầu số người vào kiểm kê tài sản nhà ông Ngữ lần thứ hai, để tính giá trị tài sản chia tỷ lệ theo ý ban bồi thường . Chủ tọa phiên tòa không triệu tập, dẫn tới khó khăn trong việc làm rõ các tình tiết tại phiên tòa.
- Thứ ba : Đề nghị thay đổi hai vị hội thẩm là Ông Trần Văn Hòa cán bộ của UBND Q9, vì vị này ngồi xử tôi kiện UBND Q9 sẽ không khách quan.. Thực tế mới mở đầu phiên tòa, đã thấy ông Hòa thường ghé đầu sang trao đổi với chủ tọạ, như có việc chỉ đạo bà chủ tọa phiên tòa.
Vị hội thẩm thứ hai là bà Trần Ngọc Ánh cũng là cán bộ phường Tân phú và còn là nhân viên công ty công ích, thuộc phòng quản lý đô thị và phát triển nhà Q9 , nêu bà Ánh ngồi ghế hội thẩm xử trong phiên tòa tôi kiện UBND Q9 cũng sẽ không khách quan, nên cần phải thay .
Nếu không có hội thẩm dự khuyết thì đề nghị hoãn phiên tòa , trước đề nghị kiên quyết của ông Ngữ và LS Hội đồng xét xử tạm nghỉ vào hội ý .
15 phút sau HĐXX trở lai phòng xử , tuyên bố phiên tòa tiếp tục làm việc .
LS kiên quyết đề nghị hoãn phiên tòa, vì nếu tiếp tục xử là vi phạm Luật tố tụng.
Ông Ngữ đề nghị LS thông cảm ..cho phiên tòa được xét xử. Vì vụ kiện này thời gian thụ lý hồ sơ đã trên 4 năm, thay 5 lần thẩm phán. Về ngành dọc ông Ngữ không nắm rõ,…. nhưng về sinh hoạt khác và đoàn thể thì TAQ9 vẫn nằm trong tổ chức tội phạm tham nhũng , núp dưới danh nghĩa “ chính quyền quận 9 ” nên việc xử hay hoãn xử cũng vậy . Do đó đề nghị LS bỏ qua, cho HĐXX tiếp tục xét xử      
Chủ tọa phiên tòa liên tục “ áp đảo ” LS và ông Ngữ .
- LS hỏi: UBNDQ9 căn cứ vào cơ sở pháp lý nào cưỡng chế nhà đất của ông Ngữ ?
- Đại diện ủy ban quận 9 ( bị đơn ) – Căn cứ QĐ 2666/QĐ-UB ngày 27/6 / 2002 của UBND TPHCM
-   LS : Ông cho biết QĐ2666 có phải là QĐ hành chính để thu hồi đất không ?
- Ông Tiễn bị đơn , đáp : QĐ 2666 không phải là QĐ hành chính
- LS : Tôi hỏi lại, QĐ2666 có phải là QĐ hành chính để thu hồi đất nhà ông Ngữ không ? Trong QĐ này có nêu tên ông Ngữ , nêu thu hồi đất nhà ông Ngữ, số lô, số thửa không?
Chủ tọa phiên tòa ( chủ tọa .CT ) Với cương vị chủ tọa phiên tòa , tôi yêu cầu LS hỏi một lần , và hỏi từng câu để bên UB trả lời xong, ông sẽ hỏi tiếp ( bênh vực cho đại diện UB – Hai vị đại diện cho UBQ9 trình độ thế nào , xem bài viết sau : CQQ9 hay tổ chức tội phạm tham nhũng )
- Ông Nam ĐDQ9 ( bị đơn tên Nam, bị đơn tên Tiễn ) trả lời : QĐ 2666 là QĐ Hành chính thu hồi đất chung cho cả khu CNC. Theo chỉ đạo của thành phố , khu CNC không cần phải có quyết định riêng cho từng hộ gia đình .
- LS : Vâng QĐ2666 là QĐ thu hồi đất chung cho cả khu công nghệ cao, không cần phải có QĐ riêng . Thế UBQ9 có giao QĐ 2666 đến nhà ông Ngữ không ? nếu có, đưa ra bằng chứng.
- Bị đơn, Tiễn : Không đưa đến nhà ông Ngữ mà chỉ họp cả phường phố biến chung.
- LS chiếu dẫn : – Khoản 10, điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo, 1998 định nghĩa về quyết định hành chính : “ Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính
QĐ2666 là QĐ hành chính thu hồi đất chung, đã áp dụng thu hồi 3099 gia đình trong 10 năm qua thì có phù hợp không ?
Mặt khác Luật cũng quy định: việc thu hồi đất phải căn cứ bằng một quyết định hành chính, trong đó ghi tên ( hoặc gắn liền một danh sách ) một hoặc một số hộ dân cư thể, cùng diện tích đất bị thu hồi của từng hộ dân. Người dân phải nhận được quyết định hành chính ( có ghi rõ tên họ và diện tích bị thu hồi ) Để chấp hành hoặc thực hiện khiếu nại. Nếu người dân chưa nhận được quyết định thu hồi đất ( có ghi rõ tên họ và diện tích đất bị thu hồi ), họ không có nghĩa vụ phải thi hành .
Nói gọn hơn : hành chính phải ghi tên một số đối tượng cụ thể để giải quyết một vấn đề cụ thể.
- LS hỏi tiếp :Buổi họp hôm ấy vào ngày mấy ? UB có mời ông Ngữ , và ông có thấy ông Ngữ đến trong buổi họp ấy không ?
- Ông Tiễn . Không biết …
(sau này ông Ngữ nói cho biết , ông Tiễn học chưa hết phổ thông, làm nghề vá xe đạp ven đường, khi thành lập Q9 năm 1998 xin vào làm nhân viên UB phường Phước Bình, Huỳnh Tiễn in sang băng đĩa lậu đồi trụy có nội dung xấu nên bị đuổi việc. Năm 2003 được ông Út trưởng ban bồi thường, cùng KP kép lên làm nhân viên tạm tuyển . Nên ông Tiễn có biết gì luật pháp và việc họp hành lúc đó ).
- Chủ tọa : Chát chúa. Tôi nhắc lại LS không nên hỏi , câu hỏi sang phần tranh luận .
- LS : Trong Điều I của QĐ2666 có nêu: “ Nay thu hồi 804 ha đất nằm trong khu vực quy hoạch xây dụng khu công nghệ cao TPHCM..” Vậy ông có mang theo bản đồ quy hoạch đi kèm với QĐ2666 để chứng minh phần đất nhà ông Ngữ có nằm vào diện tích quy hoạch khu CNC hay không ? Nếu ông không mang theo; ông cho biết bản đồ đó lập ngày, tháng nào, bản đồ số mấy ? Cấp nào phê duyệt …?
- Chủ tọa đanh đá cắt ngang : tôi là người điều khiển phiên tòa hôm nay, tôi nhắc lại , LS phải hỏi từng ý một để bên UB người ta trả lời …LS hỏi như vậy thì bên phía UB trả lời sao được .
- Ông bị đơn, Tiễn: UBQ9 căn cứ vào bản đồ 18426 của Sở Tài nguyên môi trường TP.
- LS : QĐ 2666 ban hành tháng 06/2002, bản đồ 18426 được duyệt tháng 4/2004.     thu hồi đất nhà ông Ngữ tháng 05/2003 vậy ông giải thích việc này như thế nào ?
- Ông Tiễn ĐDUB:    không trả lời …
- LS : Tóm lại : như vậy hai vị đại diện UB đã khảng định là QĐ 2666 là QĐ hành chính thu hồi đất chung cho cả khu CNC. QĐ 2666 không tống đạt đến nhà ông Ngữ như điều 3 QĐ 2666 quy định , không có tên ông Ngữ, không nêu thu hồi lô, thửa đất nhà ông Ngữ …Vâng .
- LS : Trong QĐ số 3022/ QĐ –UB ngày 23/07/2002 có nêu :
“ Điều 1 : Nay ban hành quyết định điều chỉnh, di chuyển các hộ dân cư ( hộ gia đình, hộ cá nhân ), cơ quan, đơn vị, vật kiến trúc khác…
Lập danh sách các hộ dân cư, cơ quan, đơn vị và vật kiến trúc khác, điều chỉnh, di chuyển do UBNDQ9 phối hợp với ban quản lý khu CNC thành phố xác định và công bố. ”. Vậy UBQ9 có lập danh sách và trong danh sách có tên hộ ông Nguyễn Xuân Ngữ không ? …
Bị đơn, Tiễn :   UBQ9 không lập danh sách vì đông quá !
LS : Như vậy UBNQ9 bỏ qua quy định lập danh sách, và ông Ngữ không có tên liên quan đến quyết định 3022/QĐ –UB
LS : Trong QĐ 121/2002/QĐ-UB ngày 01/11/2002 có quy định : “… hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng của dự án có trách nhiệm lập phương án đền bù, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư cụ thể, báo cáo Hội đồng thẩm định đề bù thiệt hại giải phóng mặt bằng của thành phố thẩm định, trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt để thực hiện ”
Vậy ông cho biết UBNDQ9 có lập phương án theo quy định trong QĐ 121/2002/QĐ-UB của UBNDTP không ? Ông có thể cho chúng tôi coi để biết phương án đền bù cho hộ ông Ngữ không ?
- Bị đơn : Đối với khu CNC, Quận 9 không phải lập phương án bồi thường .
- LS : Vâng , như vậy UBQ9 không lập phương án bồi thường. Khu CNC không có phương án bồi thường, tái định cư…
- LS Hỏi tiếp : Trong QĐ số 2193/ QĐ – UB ngày 19/05/2004 của UBNDTP nêu cụ thể thu hồi đất của 2 phường Tăng Nhơn Phú A và Tăng Nhơn Phú B.
Nhà đất của ông Ngữ tại phường Long Thạnh Mỹ , không có liên quan đến QĐ này, nhưng trong QĐ cưỡng chế vẫn viện dẫn làm căn cứ pháp lý . Ông cho biết việc làm này có hợp lý không ? Mục đích là gì ?
- Bị đơn : Việc này quận chỉ biết làm theo sự chỉ đạo của thành phố
- LS : Trong QĐ cưỡng chế nhà ông Ngữ số 13, UBNDQ9 có nêu:
Căn cứ Nghị định 84/2007/NĐ – CP ngày 25/05/2007 có quy định :
Điều 60 : Cưỡng chế thu hồi đất
“ 1. Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 39 của Luật đất đai chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây :
a)   Thực hiện đúng trình tự thủ tục và thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại các Điều 49,50,51.52,53,54,55,56,57,58 và 59.”
Khoản 3 Điều 39 :
Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế ..”
Điều 47 Nghị định 197 .
“…trường hợp đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất, thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế ”
Như vậy,việc UBNDQ9 ra QĐ cưỡng chế hành chính , nhưng thực tế là cưỡng chế để thu hồi đất nhà ông Ngữ phải không ?
- Bị đơn : Đúng
- LS : UBQ9 có ban hành có quyết định thu hồi đất, và tống đạt quyết định thu hồi đất đến nhà ông Ngữ không ?                            
- Bị đơn : Tôi đã nói lúc nãy rồi, đối với khu CNC không có quy định phải gửi quyết định thu hồi đất riêng gửi đến cho từng hộ gia đình .
- LS : Trước khi ban hành và tiến hành cưỡng chế nhà ông Ngữ theo Điều 60 UBNDQ9 đã thực hiên các điều 52, 55, 56 58, 59 chưa ?
- Bị đơn : Theo quy định của Thành phố , UBQ9 chỉ thực hiện Điều 60.
- LS : Vâng như vậy đã rõ ràng là UBNDQ9 cưỡng chế lấy đất nhà ông Ngữ. Trong khi không lập ,thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể ( Điều 51) Không thông báo việc thu hồi đất (Điều 52 ) . Không ban hành và nên không có quyết định THD tống đạt đến nhà ông Ngữ ( Điều 53 ). Không giải quyết các đơn khiếu nại của ông Ngữ ( Điều 54). Kiểm kê tài sản không dựa trên căn cứ pháp lý nào, Sử dụng duy nhất QĐ3788 thu hồi đất của phường Long Bình ( phường khác ) để kiểm kê đất và tài sản của ông Ngữ ( Điều 55 ). Không Lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ ông Ngữ ( Điều 56 ) tương tự cũng chưa thực hiện các Điều 57,58,59.. mà UBNDQ9 chỉ thực hiện Điều 60 của NĐ84 phải không ?
- Bị đơn : Tôi đã trả lời là đối với khu CNC, Q9 chỉ làm theo chỉ đạo của thành phố .
- Chủ tọa : Tôi đã nhắc LS , là đã hỏi UB rồi thì không nên hỏi lại , mà chỉ hỏi từng vấn đề một để bên UB người ta trả lời…
- LS : Khi cưỡng chế phá dỡ nhà ông Ngữ , UBQ9 có ra QĐ phá dỡ và thực hiện theo quy định tại Điều 70 của Luật xây dựng
“ 1. Việc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Đối với nhà ở của tổ chức, cá nhân phải giải quyết chỗ ở mới ổn định, có điều kiện chỗ ở bằng hoặc tốt hơn chỗ ở cũ , hỗ trợ tạo việc làm, ổn định cuộc sống cho người phải di chuyển …”
   -   Bị đơn : Q9 có ra QĐ bán nhà chung cư cho ông Ngữ .
   – LS : UBQ9 đã giao quyết định và giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất cho ông Ngữ chưa ? UBQ9 có chuyển xuống UB phường để giao cho ông Ngữ , không biết họ giao chưa?
-   Ông Ngữ đứng dậy phản đối : Đại diện UBQ9 nói bậy, bịa đặt , tại sao từ năm 2006 đến nay không thông báo đến gia đình tôi ? Bây giờ sao chụp hồ sơ tôi mới nhìn thấy bản sao .
-   LS : Tôi hỏi lại , Trước khi cưỡng chế phá dỡ nhà ông Ngữ , UBNDQ9 có ban hành QĐ gửi đến nhà ông Ngữ, để ông Ngữ biết không ?
-   Bị đơn :   Q9 không ra QĐ phá dỡ..
Cuối buối chiều HĐXX, sau gần 2 giờ đồng hồ nghị án ra thông báo sẽ tuyên án vào lúc 13h30 chiều 04/ 4 / 2014.
Người dân tham dự phiên tòa đồng ký tên phản đối chủ tọa phiên tòa và hai hội thẩm của phiên tòa ngày 28/ 3/ 2014 .
image001
image002
Theo thông báo ngày 4/4/2014 sẽ tuyên án vào lúc 13h30′.
Trong đơn tố cáo của ông Ngữ gửi chánh án TAQ9 và TANDTPHCM, ông Ngữ trình bày : Đúng theo ngày, giờ thông báo, ông Ngữ có đến thấy hai phòng thường để xét xử cửa vẫn đóng, Hội đồng xét xử không có ai đến. Ngoài anh Tuấn – trung tá an ninh Q.9, và anh Đức – CAQ9 cùng đi ( thường các anh có mặt khi có phiên tòa xử án hành chính về đất đai ), và anh Lê Thanh, anh Nguyễn Tấn Chương phường Long Thạnh Mỹ, người thân quen với ông Ngữ đến coi và nghe tuyên án.
Ông Ngữ chờ đến gần 3 giờ chiều, đi vào phòng Chủ tọa phiên tòa thẩm phán Trần Thị Kim Quy để hỏi , phòng đóng cửa. Ông Ngữ vào phòng thư ký phiên tòa Trần Thị Hồng Cúc định hỏi tòa có tuyên án không ? “ Tôi vừa vào đến cửa phòng bà thư ký đuổi ngay : Ông đi ra ngoài chờ đánh máy hoãn phiên tòa xong tôi giao cho quyết định ..” Ông Ngữ hỏi thư ký ; Tại sao hoãn tuyên án không thông báo trước , để chúng tôi đi mất thời gian, làm việc như thế này sao ?
Phiên tòa ngày 28 / 3/ 2014 Tòa xét xử suốt một ngày đã xong, chỉ còn phần tuyên và ra bản án … Nhưng tòa án Q9 không tuyên án, không ra bản án. Coi như một phiên tòa “ lép ”. Một phiên tòa chết .
Ngày 04 / 4/ 2014 tòa gửi giấy triệu tập và quyết định ngày 17/ 4 / 2014 mở phiên tòa với hai hội thẩm nhân dân mới. Không phải 2 hội thẩm phiên tòa ngày 28/03/2014.
Ngày 17/ 04 / 2014 phiên tòa mới với hai hội thẩm mới, Tòa vẫn không triệu tập những người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan .
Sau khi khai mạc phiên tòa , Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông Ngữ phát biểu :
Với phiên tòa hôm nay , Chúng tôi yêu cầu thay đổi bà chủ tọa. Lý do :
Chúng tôi yêu cầu quyền là Quyền sao chụp tài liệu, gồm các tài liệu là biên bản phiên tòa ngày 28 / 3 và biên bản nghị án ngày 28.3. Nhưng hôm nay, ngày 17.4.2014, chúng tôi đến trước khi phiên tòa diễn ra và gặp thư kí phiên tòa để đề nghị, và thư kí nói chúng tôi gặp thẩm phán, chúng tôi hỏi thẩm phán để được xem 2 biên bản đó thì thẩm phán từ chối chấp nhận. Nhưng khi xét xử, bà chủ tọa có nói Quyền sao chụp tài liệu là quyền của đương sự được Tòa chấp thuận thì bây giờ bà không cho chúng tôi xem thì bà Chủ tọa đã tước đi quyền của chúng tôi.
Ông Ngữ có đơn tố cáo bà Trần Thị Kim Quy, chủ tọa phiên tòa vi phạm Luật tố tụng, và chúng tôi cho rằng bà chủ tọa này sẽ không còn là người khách quan khi bị chúng tôi tố cáo. Mà việc chúng tôi tố cáo là sự thật, chúng tôi tố cáo ở đây là có trách nhiệm, chúng tôi yêu cầu bà triệu tập những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người làm việc trước và ghi biên bản phiên tòa nhưng bà chủ tọa đã không triệu tập, dẫn tới việc khó khăn trong việc giải quyết các tình tiết trong phiên tòa.
Chúng tôi yêu cầu thay đổi Hội thẩm, trong đó có 1 người đang làm việc cho UBNDQ.9 là Trần Văn Hòa vì nếu vị này ngồi xử thì phiên tòa không khách quan. Chúng tôi có là văn bản gửi Tòa án đề nghị thay đổi Hội thẩm nhưng chủ tọa không chấp nhận. Trong quá trình phiên tòa diễn ra, ông Hòa thường xuyên trao đổi, chỉ đạo bà Thẩm phán, theo chúng tôi, bà Thẩm phán chịu tác động của Hội thẩm. Chúng tôi đã lập biên bản gửi Chánh án tòa án nhân dân quận 9 về vụ việc này. Vì vậy chúng tôi thấy có vấn đề không khách quan trong phiên tòa lần trước.
Đương nhiên ý kiến cùa LS đã khiến bà chủ tọa Trần Thị Kim Quy không hài lòng
Nhưng ý kiến của LS được đông đảo người dự phiên tòa đồng tình
Phần xét hỏi : cũng tương tự như phiên tòa ngày 28/3/2014
Phiên tòa ngày 17/04/2014, thẩm phán giữ chủ tọa phiên tòa bà Trần Thị Kim Quy tìm mọi cách áp đảo ( đàn áp ) luật sư và bên kiện. Dùng mọi thủ đoạn gây khó dễ cho luật sư. Bố trí người đứng ngoài cửa sổ chỉa ống kính quay luật sư mục đích làm luật sư phân tâm. Luật sư phản đối nhiều lần. Thẩm phán trả lời, họ chỉ có quyền trong phòng xử án – Ngoài phòng họ không có quyền.
Phiên tòa ngày 17/4/2014, bà Quy dùng quyền chủ tọa mời luật sư ra ngoài phòng xử án vì luật sư truy hỏi đại diện Ủy ban những điều mà họ không có khả năng trả lời được, gây ồn ào gần hết thời gian buổi
Có ông cán bộ lão thành cách mạng hô ” luật sư muôn năm “. Đuổi thẩm phán chủ tọa thiên lệch, không công minh. Đuổi vĩnh viễn loại thẩm phán làm ô uế cán cân công lý của Tòa án Việt Nam. Loại thẩm phán chỉ lo quyền lợi chỗ ngồi của mình, không tôn trọng pháp luật, không tôn trọng sự thật hãy xéo đi …. Ồn ào, đùn đẩy nhau, cảnh sát chạy nhốn nháo. Thật chẳng khác nào cái chợ hàng tôm hàng cá. Nhiều người hét lên ” Tôi không còn tin Tòa án nhân dân này nữa ” …
*   Ý kiến của luật sư trước khi kết thúc phần tranh tụng của phiên tòa
Đại diện UBND Q9 cho rằng Quyết định 2666/QĐ-UBND là quyết định thu hồi đất đối với gia đình ông Ngữ, mặc dù quyết định này không ghi tên ông Ngữ, diện tích đất bị thu hồi của ông Ngữ, không giao quyết định cho ông Ngữ (kể cả bản sao).
Quyết định 2666/QĐ-UBND không phải là quyết định hành chính thông thường có hiệu lực đối với người liên quan, vì không hội đủ điều kiện của một quyết định hành chính theo quy định của pháp luật. “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính” (theo Luật khiếu nại, tố cáo 1999, cũng như Luật khiếu nại 2011, Luật tố tụng hành chính).
Theo Luật Khiếu nại, tố cáo 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005), thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính. Điều này có nghĩa, người dân chỉ được quyền khiếu nại khi nhận được quyết định hành chính và họ không thể khiếu nại quyết định hành chính nếu không nhận được quyết định hành chính. Quyết định 2666/QĐ-UBND không giao cho ông Ngữ, do đó ông Ngữ không có cơ sở để khiếu nại quyết định này và thực tế quyết định này không phải là quyết định được áp dụng một lần về một vấn đề cụ thể, nên không phải là đối tượng để ông Ngữ khiếu nại. Nói cách khác, Quyết định 2666/QĐ-UBND không phải là quyết định hành chính thông thường được áp dụng đối với cá nhân ông Ngữ.
Theo Hiến pháp (Điều 74), Luật Đất đai (Điều 138), Luật Khiếu nại tố cáo (Điều 1), ông Ngữ có quyền khiếu nại về quyết định thu hồi đất (được áp dụng đối với ông nếu có). Việc không ban hành và không giao cho ông quyết định thu hồi đất đối với đất của ông đã tước đi quyền khiếu nại của ông. Do đó, để đảm bảo đúng pháp luật phải ban hành một văn bản bằng một quyết định thu hồi đất đúng pháp luật và đúng thẩm quyền đối với ông Ngữ, để ông có căn cứ chấp nhận hoặc khiếu nại.
Điều 21, Luật đất đai 1993 quy định “Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó”. Như vậy, Luật Đất đai 1993 cũng khẳng định phải có quyết định thu hồi đất đang sử dụng của người bị thu hồi, trước khi tiến hành giao đất cho người khác. Quy định này bác bỏ quan điểm của một số người Luật Đất đai không quy định về việc quyết định thu hồi đất riêng biệt đối với người đang sử dụng đất.
Quyết định 2666/QĐ-UBND không nêu rõ khả năng đất của ông Ngữ trong phạm vi điều chỉnh của quyết định này. Theo đó, vị trí ranh giới khu đất thu hồi được xác định trên bản đố quy hoạch do Viện Quy hoạch thành phố lập. Như vậy, quyết định 2666/QĐ-UBND không nói rõ bản đồ quy hoạch số bao nhiêu được Viện Quy hoạch lập ngày tháng năm nào. Năm 2004, ông Ngữ có yêu cầu đến UBND Phường xác định đất của ông thuộc quy hoạch giải tỏa không, nhưng chưa được trả lời. Sau này, ông Ngữ đều yêu cầu xem quy hoạch chi tiết do Viện Quy hoạch lập nhưng đều không được đáp ứng. Đến năm 2008, theo UBND Q9, quy hoạch chi tiết mới được công bố (theo ông Ngữ, đây là bản đồ quy hoạch số 18426 do Viện Quy hoạch lập năm 2004). Chúng tôi đề nghị Tòa án yêu cầu UBND Q9 cung cấp bản đồ quy hoạch mà theo UBND Q9 đã công bố vào năm 2008 và bản đồ quy hoạch do Viện Quy hoạch lập để xác định ranh giới thu hồi đất theo Quyết định 2666/QĐ-UBND. Tóm lại, đến thời điểm 01/07/2004 (thời điểm Luật Đất đai 2003 có hiệu lực) không có bằng chứng xác định Quyết định 2666/QĐ-UBND nêu trên liên quan trực tiếp đến đất của nhà ông Ngữ (nếu có, đề nghị UBND Q9 cung cấp bằng chứng).
UBND Q9 cho rằng họ áp dụng khoản 3 Điều 39 Luật Đất đai 2003 để cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Ngữ, trích dưới đây:
Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế”.
UBND Q9 cho rằng ông Ngữ không chấp hành quyết định thu hồi đất của UBND Thành phố (Quyết định 2666/QĐ-UBND).
Nếu đúng vậy, UBND Thành phố phải ra quyết định cưỡng chế và UBND Q9 không có quyền ra quyết định cưỡng chế thay UBND Thành phố.
Nói cách khác, UBND Q9 đã thừa nhận họ ban hành quyết định cưỡng chế không đúng thẩm quyền.
Việc cưỡng chế tại thời điểm tháng 05/2009 phải tuân theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Theo Điều 60, việc cưỡng chế thu hồi đất phải đảm bảo những điều kiện sau (ngoài những điều kiện khác), nhưng việc cưỡng chế đối với ông Ngữ đã không đảm bảo nhjững điều kiện này:
Thực hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại các điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59 Nghị định này. Chúng tôi không thấy UBND Q9 đã thực hiện trình tự thủ tục theo Điều 53 về quyết định thu hồi đất. Theo đó, phải có quyết định thu hồi đất chung kèm theo danh sách đất, tên người bị thu hồi, quyết định thu hồi đất riêng đối với từng thửa đất, tên người và phải gửi đến người có đất bị thu hồi, niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã. Theo ông Ngữ, UBND Q9 không thực hiện đúng theo Điều 58 Nghị định này. Cụ thể, ông Ngữ có 400 m2 đất ở, thuộc đối tượng được tái định cư, nhưng cho đến thời điểm cưỡng chế ngày 21/5/2009, ông Ngữ không được bàn giao đất ở và giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất ở cho người được bố trí tái định cư trước khi giải phóng mặt bằng (nếu UBND Q9 có bằng chứng đã giao đất và giấy tờ về đất cho ông Ngữ trước thời điểm này, nhưng ông Ngữ không nhận đề nghị xuất trình bằng chứng). Theo ông Ngữ, một số giấy tờ, đất tái định cư sau này ông mới biết và được nhận sau khi bị cưỡng chế.
có quyết định cưỡng chế của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Như đã phân tích ở trên, UBND có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế là UBND TPHCM (nếu cho rằng Quyết định 2666/QĐ-UBND là quyết định thu hồi đất đối với ông Ngữ). Thực tế, không có quyết định cưỡng chế nào được ban hành từ UBND TPHCM.
Việc cưỡng chế phá dỡ nhà ở đã không tuân theo quy định của Luật Nhà ở. Theo Điều 86 Luật Nhà ở, phải có quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở. Ông Ngữ tại thời điểm cưỡng chế đang ở tại nhà của mình trên 400 m2 đất thổ cư, điều này UBND Q9 biết rõ. Nhưng UBND Q9 đã không ra quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở (Điều 86 Luật nhà ở 2005). Trong Quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UBND ngày 3/4/2009 không có căn cứ theo Luật Nhà ở và cũng không nêu biện pháp phá dỡ nhà ở, nhưng cán bộ UBND Q9 vẫn phá dỡ nhà ở của ông Ngữ. Theo Điều 87 Luật Nhà ở, “phải đảm bảo nguyên tắc chỗ ở mới của hộ gia đình, cá nhân phải bằng hoặc tốt hơn chỗ ở cũ”, thực tế UBND Q9 đã không đảm bảo điều kiện này cho ông Ngữ trước khi cưỡng chế (nếu UBND Q9 có bằng chứng cái gọi là chỗ ở mới của ông Ngữ bằng hoặc tốt hơn chỗ ở cũ của nhà ông Ngữ, cụ thể bằng hoặc lớn hơn 400 m2 đất ở, đề nghị xuất trình chứng cứ).
Về văn bản số 361/BTNMT-ĐĐ ngày 30/1/2008 do một cấp vụ của Bộ tài nguyên và Môi trường ký về việc ban hành quyết định thu hồi đất của ủy ban nhân dân cấp huyện trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó, UBND cấp huyện không phải ban hành quyết định thu hồi đất cụ thể. Theo chúng tôi, đây không phải là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản này trái với Nghị định 84/2007/NĐ-CP nêu trên (cũng như trái Điều 21 Luật Đất đai 1993) nên không thể chấp nhận được. Theo chúng tôi, chỉ khi người dân thỏa thuận được với chủ đầu tư (người được giao đất) mới không cần có quyết định thu hồi đất, vì khi đó không cần cưỡng chế thu hồi đất áp dụng theo khoản 3 Điều 39 Luật Đất đai 2003. Nếu áp dụng điều khoản này, phải có quyết định thu hồi đất riêng biệt đối với họ, mới xác định họ có chấp hành quyết định thu hồi đất hay không.  
Kiến nghị của LS :
Đề nghị Tòa án căn cứ Luật tố tụng Hành chính triệu tập đại diệncó thẩm quyền của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để làm rõ Quyết định 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố có phải là quyết định hành chính để làm cơ sở thu hồi và cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông Ngữ hay không ?;
Hủy bỏ Quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UB ngày 03/04/2009 do Phó chủ tịch UBND Q9 ông Nguyễn Văn Thành ký, có đóng dấu UBND Q9;
Nếu cho rằng quyết định 2666/QĐ-UBND là quyết định thu hồi đất đối với gia đình ông Ngữ, cơ quan có thẩm quyền phải ban hành theo đúng quy định pháp luật;
Phải có quyết định phá dỡ nhà đối với gia đình ông Ngữ và phải bố trí nhà ở mới cho gia đình ông bằng hoặc tốt hơn nhà ở cũ.
Ý kiến của người dân trước thái độ vô liêm sỉ của thẩm phán , chủ tọa phiên tòa Trần Thị Kim Quy :  
Phải chăng sự chuẫn mực về đạo lý của đất nước giờ không còn nữa ?! Dân tin Đảng, tin chủ trương chính sách và pháp luật tiến bộ của một đất nước đi con đường mà Bác Hồ đã chọn cho dân tộc. Vậy pháp luật thì tiến bộ, người nắm giữ luật pháp và áp dụng nó lại là loại bỉ ổi ngồi ghế thẩm phán như Trần Thị Kim Quy có nên tồn tại trong bộ máy công quyền này nữa không??? Việc này không hiểu Chánh án Tòa án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ông Trương Hòa Bình nghĩ gì ??? Quốc hội là cơ quan lập pháp nghĩ gì khi được biết tin này. Người dân còn tin vào pháp luật, tin chính quyền hay không là :” Thái độ xử trí vụ việc này một cách minh bạch và đầy trách nhiệm ” ???
Dưới đây là chữ ký của những người tham dự phiên tòa ngày 17/04/2014 cực lực phản đối thái độ vô liêm sỉ của thẩm phán, chủ tọa phiên tòa Trần Thị Kim Quy :
 image003
 image004
Vài hình ảnh về hành vi mà chủ tọa phiên tòa Trần Thị Kim Quy gây nên cảnh lộn xộn của phiên tòa trong khi xét xử :
 image005
 image006
 image007
 image008
 Bài viết và những hình ảnh này do người dân tham dự phiên tòa cung cấp


                                                            Quận 9,TPHCM, Ngày 18 tháng 04 năm 2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét