Tàu Trung Quốc tuần tra quần đảo Điếu Ngư/Senkaku mà họ đang tranh chấp với Nhật Bản
Khi
Đối thoại Shangri La lần thứ 13 bế mạc hôm 1.6, nhiều học giả trên thế
giới yêu cầu Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc (PLA) Vương Quán Trung, giải thích về cái gọi là “đường 9 đoạn” của
Trung Quốc trên biển Đông.
Ông tướng này chỉ cho biết Trung Quốc chuẩn bị “đàm phán trực tiếp” với từng nước có liên quan, theo Thông tấn xã Việt Nam.
Còn theo bài viết của Jeffrey A.Bader
trên trang Brookings.edu, Mỹ đã kết liễu sự mập mờ của Trung Quốc về
đường 9 đoạn”, còn gọi là “đường lưỡi bò”.
Tựa tiếng Anh của bài viết: The U.S. and China’s Nine-Dash Line: Ending the Ambiguity đăng trên trang mạng của Viện Brookings ngày 6.2.2014.
Một Thế Giới xin
trích dịch bài viết của ông Bader, một giám đốc cấp cao về các vấn đề
châu Á trong Hội đồng an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Barack Obama,
đồng thời là cựu đại sứ Mỹ tại Namibia:
Lần đầu tiên Mỹ bày tỏ một cách rõ
ràng, rằng “đường 9 đoạn” do Trung Quốc vẽ ra trên biển Đông là trái với
luật pháp quốc tế. Trong buổi tường trình trước Ủy ban đối ngoại của
Quốc hội Mỹ, trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương
Danny Russel nói: “Theo luật pháp quốc tế, các đòi hỏi chủ quyền ở biển
biển Đông phải dựa trên các yếu tố từ đất liền.
Tất cả những tuyên bố chủ quyền từ
“đường 9 đoạn” của Trung Quốc mà không dựa trên các quyền chủ quyền trên
đất liền đều trái với luật pháp quốc tế. Cộng đồng thế giới yêu cầu
Trung Quốc phải giải thích, nếu không thì phải điều chỉnh những tuyên bố
chủ quyền dựa trên đường 9 đoạn, để tuân thủ các nguyên tắc của luật
pháp quốc tế”.
Với diện tích rộng hơn 1,4 triệu dặm
vuông, biển Đông có hàng trăm đảo và quần đảo nhỏ, các rặng san hô, mà
phần lớn là không có người ở hay không đủ điều kiện sinh sống.
Trung Quốc thừa hưởng ý tưởng về “đường
9 đoạn” từ chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, đó là một
đường vẽ mập mờ bao quanh tất cả hòn đảo ở biển Đông, mà vùng nước trong
đó Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Dựa theo Công ước Liên hiệp Quốc về
luật Biển (U.N. Convention on the Law of the Sea – UNCLOS), được thương
lượng vào những năm 1970 và 1980, các quốc gia ven biển được yêu sách
quyền độc quyền khai thác các nguồn tài nguyên ngư nghiệp và khoáng sản
trong “vùng đặc quyền kinh tế” (Exclusive Economic Zones – EEZ).
Đó là vùng nước rộng 200 hải lý tính từ
bờ biển hay xung quanh các hòn đảo có người ở. Không có điều luật nào
trong Công ước UNCLOS cho phép đòi hỏi quyền chủ quyền mà không dựa vào
nguyên tắc tính từ đất liền này.
Dựa trên nguyên tắc này của UNCLOS, Mỹ
xem các tuyên bố chủ quyền ở biển Đông mà không dựa trên các hòn đảo có
người sinh sống là hoàn toàn vô giá trị. Tuyên bố của trợ lý ngoại
trưởng Russel đã làm rõ luận điểm này của Mỹ.
Có thể thấy rõ sự quan tâm của Mỹ thời
Tổng thống Barack Obama về tình hình biển Đông. Dấu hiệu đầu tiên của sự
quan tâm đó là tuyên bố được biết đến rộng rãi của Ngoại trưởng Hillary
Clinton, tại một hội nghị quốc tế ở Hà Nội vào năm 2010.
Trong đó, bà nêu ra các nguyên tắc
trong chính sách của Mỹ về biển Đông: tôn trọng tự do hàng hải, giải
quyết các bất đồng một cách hòa bình, tự do thương mại, thương lượng để
tiến tới thành lập một bộ Quy tắc Ứng Xử (Code of Conduct – COC) nhằm
giải quyết các bất đồng. Và vấn đề liên quan ở đây là các đòi hỏi chủ
quyền vùng ở các vùng biển phải dựa trên các chủ quyền hợp pháp trên đất
liền.
Trong khi các nước Đông Nam Á như Việt Nam. Philippines, Malaysia,
và Brunei nhiệt liệt ủng hộ, tuyên bố này làm Trung Quốc rất tức giận.
Ngoại trưởng Clinton đã đưa ra tuyên bố này để phản hồi cho những
bất an ngày một gia tăng giữa các nước láng giềng của Trung Quốc, về
việc nước này đang ngày càng hung hăng, ngang ngược trong các đòi hỏi
chủ quyền, thông qua các biện pháp chính trị và quân sự, trong một môi
trường thiếu vắng các cơ chế ngoại giao để làm giảm thiểu căng thẳng.
Trong khoảng giữa năm 1994-1995, đã có
một giai đoạn căng thẳng tương tự, khi Trung Quốc tiến hành xây dựng các
công trình ở rặng san hô Mischief nằm trong quần đảo Trường Sa mà
Philippines tuyên bố chủ quyền.
Những đổ vỡ mang tính hệ quả trong mối
quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đã làm cho các lãnh đạo
Trung Quốc khi ấy, dẫn đầu là Ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham, phải thương
thảo với các nước ASEAN một bản Tuyên bố Ứng xử (Declaration of Conduct –
DOC) và một cam kết rằng các bên sẽ không có những hành động làm thay
đổi nguyên trạng.
Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, đã
có những lo ngại gia tăng trong vùng và ngay tại Mỹ, Trung Quốc đã không
còn thích thú với các giải pháp ngoại giao nữa, mà nay quay sang sử
dụng các phương cách quân sự để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền ở biển
Đông.
Các tuyên bố nhắm vào giới ngoại giao
Mỹ là Trung Quốc xem biển Đông như một “quyền lợi cốt lõi”, Trung Quốc
sẽ không chấp nhận sự can thiệp làm tăng căng thẳng từ bên ngoài. Trong
năm 2012, Trung Quốc đã xua đuổi ngư dân Philippines ra khỏi ngư trường
truyền thống của họ nằm xung quanh bãi cạn Scarborough, nằm cách các đảo
lớn của Philippines chưa tới 125 hải lý, rồi từ đó cho cảnh sát biển
liên tục kiểm soát.
Cũng trong năm 2012, Trung Quốc thiết
lập một đơn vị hành chánh và quân sự bao gồm nhiều phần của quần đảo
Hoàng sa. Ngay khi vừa thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở
biển Hoa Đông vào cuối năm 2013, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung
Quốc tuyên bố ý định thành lập một ADIZ tương tự ở biển Đông, chắc chắn
sẽ chồng lấn với ít nhất vài khu vực đã được thiết lập bởi các nước
khác.
Biển Đông là một vấn đề phức tạp đối
với Mỹ. Chúng ta không có đòi hỏi nào trong vùng đó. Chúng ta đã không
và sẽ không nên ngả theo phe nào trong các tuyên bố chủ quyền. Cho dù
bất kỳ nước nào thiết lập được khả năng phát huy sức mạnh từ các đảo ở
biển Đông cũng sẽ khó lòng mà đe dọa được tàu bè và quân đội Mỹ hoạt
động trong vùng. Dù có những đánh giá về tiềm năng dầu hỏa và khí đốt,
khả năng khai thác thương mại là không thể trong tương lai gần.
Tuy nhiên, Mỹ có các mối quan tâm trọng yếu ở biển Đông. Đó là:
• Để bảo đảm tự do hàng hải, không phải vì
quyền lợi của bất cứ nước nào, đó là một quyền quốc tế quan trọng trong
một khu vực mà 50% các tàu chở dầu phải đi qua, một hải lộ lớn của kinh
tế thế giới, là nơi mà các tàu hải quân Mỹ được gửi đến và hoạt động
thường xuyên theo luật pháp quốc tế.
• Để ngăn chặn việc sử dụng sức mạnh hay áp bức để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hay hàng hải.
• Để bảo vệ cho việc tuân thủ các nguyên tắc và luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề như vậy.
• Để bảo đảm tất cả các quốc gia, bao
gồm Mỹ, được quyền khai thác các nguồn lợi ngư nghiệp và khoáng sản bên
ngoài các vùng đặc quyền kinh tế hợp pháp.
• Để giúp một đồng minh của Mỹ là Philippines khỏi bị bắt nạt hay bị tấn công bằng sức mạnh.
• Để đảm bảo rằng quyền lợi của tất cả các quốc gia, chứ không phải chỉ có nước lớn, phải được tôn trọng.
Có những áp lực giữa các yếu tố khác nhau trong quyền lợi của Mỹ.
Mỹ không muốn thấy Trung Quốc đạt được
quyền kiểm soát trong khu vực thông qua việc áp bức. Nhưng cùng lúc, Mỹ
không muốn biển Đông trở thành nơi đối đầu hay xung đột giữa Mỹ và Trung
Quốc.
Sự thách thức từ các đòi hỏi của Trung
Quốc, nếu không tuân theo các thông lệ quốc tế và phù hợp với các nguyên
tắc của Mỹ, có thể kích thích chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và sự hoài
nghi nhắm vào chủ đích của Mỹ, thậm chí kích thích các hành xử hung bạo
hơn của Trung Quốc nhắm vào các bên tranh chấp khác trong vùng, nếu như
Mỹ không có những đáp trả hiệu quả.
Mặt khác, một nước Mỹ thụ động sẽ làm
lu mờ các quan tâm kể trên, sẽ làm cho các bên tranh chấp khác tin rằng
Mỹ bỏ rơi họ và cả những nguyên tắc của mình, qua đó có thể làm cho
chính sách “xoay trục về châu Á” của chính quyền Obama trở thành trò hề,
làm mất đi sự đón nhận của khu vực đối với sự hiện diện và ảnh hưởng
của Mỹ.
Qua việc công khai không chấp nhận
“đường 9 đoạn”, trợ lý ngoại trưởng Russel và chính quyền Obama đã vạch
ra một sự giới hạn đúng chỗ. Họ đã làm rõ là những phản đối của chúng ta
dựa trên nguyên tắc, dựa trên luật pháp quốc tế, chứ không phải chỉ để
nhắm vào Trung Quốc.
Nếu cách tiếp cận của chúng ta với vấn
đề biển Đông vẫn tiếp tục dựa trên nền tảng của nguyên tắc và luật pháp
quốc tế, Mỹ có thể đạt được những mục tiêu đề ra, bảo vệ quyền lợi của
các bên tranh chấp mà không phải đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề chủ
quyền.
Những việc gì khác mà Mỹ nên làm? Rất nhiều thứ:
• Mỹ nên đảm bảo rằng cách tiếp cận của
mình không bị xem là đơn phương. Đôi khi các quốc gia khác ngoài mặt
thì im lặng nhưng bên trong vẫn ủng hộ.
Chính quyền Mỹ nên làm rõ với các bên
tranh chấp khác, cũng như các nước ASEAN khác như Singapore và Thái Lan,
là chúng ta kỳ vọng ở họ một sự phản đối công khai đối với “đường 9
đoạn” theo luật pháp quốc tế.
• Mỹ nên tiếp tục nỗ lực cho việc đàm
phán để tạo ra một bộ Quy tắc Ứng xử (COC) giữa Trung Quốc và các nước
ASEAN, như chúng ta đã và đang làm từ lúc ngoại trưởng Clinton thông báo
về mục tiêu đó ở Hà Nội. Thực tế là, quyết định gần đây của Trung Quốc
và các nước ASEAN trong việc bắt đầu các cuộc đối thoại về COC là một
thắng lợi từ tuyên bố của ngoại trưởng Clinton.
• Mỹ nên khuyến cáo Trung Quốc không
thành lập bất cứ một vùng nhận dạng phòng không mới nào trên biển Đông.
Dù việc làm rõ quan điểm về vấn đề này một cách công khai là cần thiết,
các cuộc đối thoại ngoại giao kín dường như có tác dụng ảnh hưởng hơn
với Bắc Kinh.
• Mỹ nên thảo luận với tất cả các bên
tranh chấp về những đồng thuận khả thi trong việc khai thác khoáng sản
và ngư nghiệp mà không liên quan đến chủ quyền, bao gồm việc hợp tác đầu
tư giữa các công ty.
• Thượng viện Mỹ nên chuẩn thuận UNCLOS.
Điều đó sẽ cho phép Mỹ có thêm tính
chính danh khi tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào các quyết định
về tương lai biển Đông. Tất cả các Ngoại trưởng tiền nhiệm của Mỹ đều
ủng hộ một quyết định như vậy.
Hải quân Mỹ cũng như các nguyên soái
hải quân và tư lệnh Thái Bình Dương, cũng như phần lớn các công ty Mỹ có
liên quan cũng đều ủng hộ. Thay vì nói, chúng ta hãy bắt tay vào làm
thôi.
Trần Trí(trích dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét