Boxitvn
James B. Steinberg & Michael O'Hanlon, foreignaffairs.com
Đỗ Kim Thêm dịch
Trong
phiên họp thượng đỉnh tại California vào tháng sáu vừa qua, Tổng thống
Hoa Kỳ Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã cùng tự kết ước sẽ
tạo niềm tin giữa hai nuớc. Từ đó, những diễn đàn thông tin chính thức
được mở ra (thí dụ như gần đây hai vị Bộ trưởng Quốc phòng của hai nước
thông báo hoạt động của diễn đàn đối thoại về các vấn đề quân sự) nhằm
bổ sung cho các diễn đàn đang có như Diễn Đàn Đối Thoại Chiến Lược và
Kinh Tế (gồm có các nhà ngoại giao cao cấp và giới chức kinh tế). Nhưng
dù với những nỗ lực này, sự tín nhiệm giữa hai thủ đô – và giữa hai quốc
gia nói chung – vẫn còn quá ít, và khả năng xung đột giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc do tình cờ hay ngay cả do chủ tâm dường như đang gia tăng.
Trước những phí tổn tiềm tàng lớn lao của tranh chấp mà cả hai phiá sẽ
phải gánh chịu, cả hai đang hình dung làm sao tránh được vấn đề, đây là
một trong những thách thức quan trọng nhất cho thời gian sắp đến.
Những
yếu tố đang làm suy giảm niềm tin là chuyện dễ xác định. Bối cảnh an
ninh và kinh tế của Đông Á đang thay đổi toàn diện, mà chủ yếu là bắt
nguồn từ sự trỗi dậy đáng kể về kinh tế của Trung Quốc trong những thập
niên vừa qua. Bù lại, phép lạ kinh tế cho phép Trung Quốc tăng khả năng
quân sự và thăng tiến trong vai trò chính trị trong và ngoài khu vực.
Giới lãnh đạo và những nhà chiến lược lừng danh của Trung Quốc cố nỗ lực
để xác quyết rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ là an hoà và không tạo
đe doạ cho các lân quốc hay trật tự kinh tế và chinh trị thế giới đang
hiện hữu. Nhưng một vài thành viên của cộng đồng thế giới vẫn còn quan
ngại và ngay cả nghi ngờ khi họ ghi nhận rằng lịch sử và lý thuyết trong
quan hệ quốc tế đã có nhiều thí dụ dẫn chứng về tranh chấp bất nguồn từ
xung đột giữa các nước đang trỗi dậy và đang chiếm ưu thế.
Hơn
thế, những hành động gần đây của Trung Quốc gây nhiều nghi ngờ hơn, khi
Trung Quốc có những cuộc hải tập đầy kiên quyết trên biển Hoa Đông và
Biển Đông và những hành vi tuyên bố đơn phương “xác định bảo vệ vùng
không phận” chung quanh Đảo Điếu Ngư (mà người Nhật gọi là Đảo Senkaku)
trong vùng Hoa Đông. Những nhà hoạch định quân sự của Hoa Kỳ lo âu hơn
về lộ trình hiện đại hoá quân sự của Trung Quốc và về sách lược chống
thâm nhập và loại trừ khu vực (anti-access/area-denial, A2/AD), mà họ
xem nỗ lực của Trung Quốc là che đậy quá vụng về vì cốt làm suy yếu khả
năng của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ các kết ước với
đồng minh trong vùng Tây Thái Bình Dương.
Cùng
thời điểm này, các cộng sự viên của Obama đang tận lực cổ vũ cho sự
chuyển hướng chiến lược, “chuyển trục” hay “tái quân bình” hướng về châu
Á. Chính quyền Hoa Kỳ xác quyết là động lực này nhằm gia tăng ổn định
khu vực, đem lợi ích cho tất cả, hơn là ngăn chận hay đe doạ Trung Quốc.
Nhưng chỉ có một thiểu số người Trung Quốc, đặc biệt là các giới chức
thuộc lĩnh vực quân sự và an ninh quốc gia, tin như vậy. Họ cũng đọc
lịch sử và lý thuyết về quan hệ quốc tế và kết luận rằng Hoa Kỳ cũng
giống như những cường quốc khác trước đó, nhất quyết duy trì bá quyền,
loại bỏ sự trỗi dậy và làm cho Trung Quốc có thể bị tổn thương. Để minh
chứng hung đồ của Hoa Kỳ, họ chỉ ra rằng những khả năng của Hoa Kỳ tăng
lên, thí dụ như mở rộng phòng vệ nguyên tử trong khu vực, những thoả ước
mới hay bổ sung việc thiết lập căn cứ tại Úc, Guam hay Singapore, những
thao diễn quân sự gần đây và chuyến bay thám thính kề cận lãnh thổ
Trung Quốc, cũng như lập trường kiên quyết của những liên minh an ninh
trong thời Chiến Tranh Lạnh. Họ quả quyết khái niệm quân sự của Hoa Kỳ
về trận tuyến phối hợp không và hải quân đang hình thành có một biện
minh khả chấp, đó là muốn cưỡng chế Trung Quốc với đe doạ sẽ ngăn chận
trận tấn công phủ đầu.
Trước cảnh bất trắc xoay
quanh tương lai của nền an ninh châu Á, những hành động của mỗi phe có
thể được hiểu và xem như hợp pháp khi có những biện pháp ngăn chận khả
năng thù nghịch hay xâm lăng trong tương lai của đối phương. Nhưng điều
này chỉ đúng trong một lối suy nghĩ thuần lý ngắn hạn, có thể làm phát
sinh vòng lẩn quẩn trong trường kỳ, gây sự bất tín trầm trọng và dẫn đến
xung đột trong tương lai do cách tiên tri của mình. Đó chính là lý do
tại sao cần phải chủ yếu tìm cách để vượt qua hay giảm thiểu tình huống
khó xử về mặt an ninh.
Một cách ngăn chận những
xung đột không cần thiết là giảm bớt vai trò hung hãn do những nhận thức
sai lạc gây ra. Việc này có thể biểu hiện từ hai chiều hướng hoàn toàn
đối nghịch: một là khi cảm nhận bị đe doạ mà không ai có chủ định gây ra
và hai là khi không tin ý định của đối phương chỉ lo bảo vệ quyền lợi.
Điều này có nghiã là thách thức thực tế cho Washington và Bắc Kinh là
xua tan những lo sợ sai lầm, trong khi duy trì ngăn chận bằng cách tạo
ra những đe doạ khả tín mà họ nghiêm túc chủ mưu. Điều quý là lịch sử và
lý thuyết có đề ra bốn phương tiện hữu dụng trong chiều hướng này:
nguyên tắc kiềm chế, hỗ tương, minh bạch và lòng kiên quyết.
Kiềm
chế là ý muốn từ bỏ mọi hành vi có thể làm tăng cường an ninh của phe
mình nhưng sẽ thể hiện đe doạ cho phe khác. Hỗ tương là cách đáp ứng
đúng theo cách hành động của đối phương – trong trường hợp này, kiềm chế
được hiểu như là dấu hiệu của lòng tự chủ kiên trì (đúng hơn là yếu
kém) và bị vấp phải một sự cạnh tranh hơn là tận dụng. Tính minh bạch
giúp xoa dịu những lo sợ do những động thái tích cực có thể nhận ra được
của đối phương mà ý định thù nghịch còn dấu kín. Và sự kiên quyết đem
lại một khoảng cách an toàn làm khủng hoảng không leo thang và tạo dễ
dàng cho từng phe khởi động việc kiềm chế, hỗ tương và minh bạch. Điều
may mắn cho toàn thể chúng ta là hiện có đủ các loại biện pháp thực tiễn
để Washington và Bắc Kinh có thể đảm nhận trong chính sách an ninh quốc
gia hầu có thể đem những phương tiện làm tăng thêm tín nhiệm và giảm
nguy cơ xung đột.
Tư duy theo truyền thống
Theo
quan điểm của Washington, những ý định tương lai cuả Trung Quốc có
nhiều bất trắc trầm trọng, nó bắt nguồn từ việc kinh phí quốc phòng gia
tăng nhanh chóng và tiếp tục duy trì, cùng song hành với mức đầu tư quy
mô cho vũ trang quy ước nhằm thách thức khả năng Hoa Kỳ. Theo những ước
lượng phóng khoáng nhất về kinh phí quốc phòng hiện nay của Trung Quốc
là gần khoảng 200 nghìn tỷ hàng năm hay 2% tổng thu nhập quốc gia, nhưng
vẫn còn ít hơn so với 1/3 kinh phí của Hoa Kỳ (hiện nay chiếm khoảng
600 nghìn tỷ cho một năm, nghiã là vào khoảng 3,5% tổng thu nhập quốc
gia), đây là một cách so sánh chính xác. Theo mức tăng trưởng hiện nay,
ngân sách quốc phòng hằng năm của Bắc Kinh sẽ không bằng ngân sách quốc
phòng của Washington cho đến khoảng năm 2030. Chính vì thế, Hoa Kỳ có
thể dựa vào số lượng vũ khí hiện đại, phần lớn còn tồn kho, kinh nghiệm
chiến đấu trong thời gian qua, kinh phí của các đồng minh và đối tác
(hiện nay vào khoảng 400 nghìn tỷ một năm).
Nhưng
nếu Trung Quốc muốn xoa dịu mối lo âu của quốc tế và chứng tỏ mục tiêu
tự phòng vệ hợp pháp hơn là khả năng dự phóng quyền lợi ra hải ngoại và
đe doạ kẻ khác, thì Trung Quốc cũng còn có nhiều biện pháp tích cực có
thể thực hiện được. Đứng trước việc kinh phí Hoa Kỳ không phải chỉ dành
cho châu Á mà toàn thế giới, một trường hợp có thể thuyết phục được là
nếu Trung Quốc đảm nhiệm vai trò quốc phòng phù hợp khi chi xuất kinh
phí khoảng phân nửa kinh phí của Hoa kỳ. Vì thế, bằng cách giảm mức tăng
kinh phí quốc phòng trong những năm sắp đến, Trung Quốc có thể minh
chứng ngắn gọn về mục tiêu tự phòng thủ hơn là cạnh tranh toàn diện.
Trung Quốc có thể biểu hiện kiềm chế trong lúc tiếp thu những hệ thống
vũ khí (thí dụ như đầu đạn nguyên tử viễn liên chống chiến hạm). Mục
tiêu của loại vũ khí này, nếu trang bị với một số lượng lớn, dường như
mâu thuẫn với kiên quyết hoan nghênh sự hiện diện quân đội của Hoa Kỳ
tại vùng Tây Thái Bình Dương. Nói chung, Trung Quốc có thể làm minh bạch
hơn về kinh phí quốc phòng và công chi và soi sáng hơn mục tiêu về sách
lược A2/AD.
Bù lại, Hoa Kỳ có thể đề ra những
biện pháp làm sáng tỏ là chương trình hiện đại hoá quân đội theo quy ước
không nhằm mục tiêu đe doạ quyền lợi hợp pháp về an ninh của Trung
Quốc. Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ đang giảm sút là một biểu hiện
kiềm chế như thế. Nhưng Washington cũng có thể làm nhiều việc hơn trong
chiều hướng này, thí dụ như giải thích mục tiêu của khái niệm một loại
trận chiến vừa không và hải quân, đổi tên khái niệm hành quân hỗn hợp
không và hải quân, gồm cả những dịch vụ quân sự bên cạnh hải lực và
không lực để chuyển hướng theo chính sách châu Á của Hoa Kỳ, và bổ sung
một vài đặc điểm thiên về tấn công của sách lược phối hợp không và hải
quân. Chiến lược này có vẻ đe doạ trực tiếp đến khả năng về chiến lược,
kiểm soát và chỉ huy của Trung Quốc với những trận tấn công phủ đầu có
thể xảy ra khi có xung đột. Để gây tín nhiệm trong việc bổ sung sách
lược này, Hoa Kỳ có thể giới hạn việc trang bị thêm các nguyên tử có đầu
đạn điều khiển chính xác từ xa và những loại bom chiến lược, vì nếu chỉ
cần tiếp nhận một số lựợng vừa đủ, có thể xem như đe doạ sinh tử cho
Trung Quốc. Khi huy động kết hợp các khả năng quy ước mà không đòi hỏi
phải lệ thuộc nặng nề vào việc phải leo thang (bao gồm những căn cứ
phòng chống hữu hiệu và có khả năng sinh tồn cao hơn khi gặp phải tấn
công), Washington có thể xoa dịu cuộc chạy đua vũ trang giữa Trung Quốc
và Hoa Kỳ và làm giảm nguy cơ bộc phát tranh chấp ngay từ khởi thủy của
cuộc khủng hoảng.
Từ chiến tranh trong không gian đến trên mạng
Những
biện pháp xây dựng niềm tin biểu tượng nhất trong thời kỳ Chiến Tranh
Lạnh là những thoả ước về kiểm soát vũ khí chiến lược, dù có nhiều vấn
đề, nhưng cuối cùng cũng đã giúp cho Washington và Mạc Tư Khoa gia tăng
ổn định trong thời khủng hoảng và giới hạn chạy đua vũ trang về vũ khí
hạt nhân về tấn công hay tự vệ. Với nhiều lý do khác nhau, những hình
thức thoả ước về kiểm soát vũ khí trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô ít phù hợp cho mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay, và
trong một vài trường hợp, có thể chứng tỏ là phản tác dụng. Nói như thế
có nghĩa là có những biện pháp trong vũ đài của các loại vũ khí không
quy uớc có thể làm giảm nghi ngờ nhau và khả năng leo thang xung đột,
hoặc do tình cờ hay quá sớm.
Một thí dụ là về
chiến tranh không gian. Trước việc Hoa Kỳ lệ thuộc nặng nề về vệ tinh
cho cả hai mục tiêu quốc phòng và dân dụng, những nhà hoạch định Trung
Quốc đang công khai nghiên cứu cách làm dung hoà những ưu thế trong lĩnh
vực không gian dành riêng cho những cuộc hành quân của Hoa Kỳ. Điều
hiển nhiên là vì sự lệ thuộc này mà Hoa Kỳ bị áp lực buộc phải chống trả
nhanh chóng, nếu như Hoa Kỳ tin là khả năng phòng thủ đang nguy cơ, bỏ
ít thì giờ hơn dành cho việc điều tra hay ngoại vận hầu làm giảm khủng
hoảng. Chính vì lý do này mà những biện pháp có thể làm gia tăng an ninh
bảo vệ không gian của Washington là chuyện bắt buộc, và những biện pháp
này cũng sẽ trở nên thu hút hơn đối với Bắc Kinh, khi làm gia tăng khả
năng Bắc Kinh bảo vệ không gian qua thời gian. Giữ an ninh tuyệt đối cho
không gian là chuyện không thể đảm bảo, vì mỗi vệ tinh dân dụng, khi có
thể được điều động dễ dàng, có khả năng để phá hủy các vệ tinh khác.
Khi chấp nhận những biện pháp như thoả thuận về những “khu vực không bị
ảnh hưởng” quanh vệ tinh, việc đề ra những quy cách ứng xử có thể làm
hợp pháp hoá việc sử dụng quân lực khi phải tự phòng vệ, không coi việc
sử dụng này như khiêu khích. Trong hoàn cảnh này, kiên quyết cũng là
quan trọng, khi Hoa Kỳ cũng cần dùng phần thặng dư trong hệ thống không
gian và hàng không để bù đắp cho mức độ tổn thương nào đó mà họ không
thể tránh được.
Một cách tương tự, Hoa Kỳ và
Trung Quốc có thể tương thuận theo một thoả ước, mà lý tưởng nhất là có
quan hệ đến các quốc gia khác, cấm các vệ tinh đụng nhau hay bùng nổ có
thể gây ra mảnh vụn trên một cao độ khoảng 1000 dặm trong không gian,
khu vực mà các vệ tinh thường hoạt động thấp trong quỹ đạo của trái đất.
Khi khu vực phủ đầy các mảnh vụn, nó sẽ làm cho các hoạt đông không
gian trong tương lai nguy hiểm. Vì thế, các trắc nghiệm về các hệ thống
phòng thủ nguyên tử xảy ra ở một cao độ sẽ thấp hơn. Một thoả ước như
thế sẽ đem lợi cho các phe và ít gây thiệt hai. Cả hai phe cũng có thể
thoả thuận không triển khai hay trắc nghiệm các loại vũ khí chống vệ
tinh hoặc không điạ. Việc thử thách các ràng buộc tự nó không loại trừ
tiềm năng cho các phòng chống, dĩ nhiên, nhưng biện pháp này có thể làm
giảm tín nhiệm của từng phe đã có trong vấn đề này, cùng lúc khi cả hai
có ý muốn đầu tư và dựa vào những hệ thống của hiệu năng mà nó có thể
trở nên bất ổn.
Kiềm chế có thể giữ một vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc gia tăng niềm tin thuộc lĩnh vực hạt nhân.
Thí dụ như kiềm chế của Trung Quốc trong chừng mực thuộc phạm vi điều
động hạt nhân gây được niềm tin là làm đúng theo đặc tính phòng vệ của
sách lược hạt nhân. Cũng tương tự như vậy, kiềm chế của Hoa Kỳ trong
việc điều động một số lớn vũ khí tên lửa ngăn chận có thể hoá giải khả
năng báo thù của Trung Quốc, đem lại cho Hoa Kỳ một cảm tưởng yên tâm
hơn về ý định phòng thủ. Ngay khi không có quy định thành văn bản, kiềm
chế khi được tôn trọng liên tục sẽ tạo tín nhiệm. Biện pháp này có thể
thúc đẩy hai phiá phê chuẩn Thoả Ước Toàn Diện về cấm thử vũ khí nguyên
tử và thực thi các thể thức kiểm tra song hành.
Do
những thoả ước minh bạch mà những biện pháp như thế có thể gia tăng,
thí dụ như quy chế “không gian tự do” nhằm tạo thêm tín nhiệm trong việc
kiềm chế cho từng phía. Quy chế này có thể đề ra do những thoả thuận mà
Hoa Kỳ, Liên Xô, các quốc gia khác thuộc Khối Minh Ước Phòng Thủ Bắc
Đại Tây Dương (NATO) và Khối Minh Ước Phòng Thủ Warsaw củ, quy định việc
bay qua lãnh thổ của từng nước khác (vào mức độ khoảng 100 chuyến bay
một năm) theo một thoả ước ký kết từ đầu thập niên 1990. Khi các quốc
gia biết cách bảo vệ các tin bí mật cực kỳ quý giá từ các chuyến bay qua
không phận như vậy, thì thoả ước không tạo quan ngại thực sự nào về an
ninh quốc gia. Những thỏa ước như thế có thể làm giảm đi sự bối rối của
Bắc Kinh về những chuyến bay thám thính thường xuyên của Hoa Kỳ gần vùng
cận duyên của Trung Quốc. Như Cựu Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Zbigniew
Brenzinski đề nghị, những chuyến bay này có thể tiết giảm một cách chừng
mực, đây là một bước tiến cần được nghiên cứu cẩn trọng, nếu Trung Quốc
muốn chứng tỏ thiện chí đáp ứng hỗ tương với mức độ minh bạch hơn.
Không
gian mạng đang bị thách thức nghiêm trọng. Cũng giống như trong không
gian, mức độ tùy thuộc nặng nề của Hoa Kỳ về cơ sở hạ tầng trong không
gian mạng gây ra những tổn thương, nên tạo áp lực Hoa Kỳ phải chống trả
thật nhanh chóng trước bất kỳ một cuộc tấn công nào, kể cả trong trường
hợp trước khi xác minh nguồn gốc tấn công. Gần đây Hoa Kỳ quan tâm nhiều
hơn về sự tích cực phòng thủ cho các cơ sở hạ tầng, biện pháp này dường
như hàm ý là Washington muốn chống trả nhằm hoá giải những đe doạ đang
phát sinh, cùng với tất cả mọi nguy hiểm cuả các biện pháp trả đũa đang
leo thang.
Có nhiều lý do để tin rằng cả
Washington và Bắc Kinh dường như không nhắm mục tiêu vào cơ cấu hạ tầng
của không gian mạng cho đến khi nào hoặc trừ phi cả hai tự nhận ra rằng
đang cận kề với xung đột trầm trọng. Nếu không có gì khác thì lệ thuộc
hỗ tương về kinh tế của các quốc gia đem lại sự đảm bảo chốngi các đột
kich. Nhưng các thành phần khác, kể cả các tác nhân không phải nhà nước,
như nhóm khủng bố hay các tin tặc, có thể quan tâm đến việc tạo tấn
công ngụy tạo để gây khủng hoảng hoặc ngay cả chiến tranh. Chính vì lý
do này, Hoa Kỳ và Trung Quốc nên đồng thuận phối hợp điều tra những kẻ
tấn công nặc danh trên mạng, nhằm tạo minh bạch và kết ước khả tín để
tránh nhắm mục tiêu vào hạ tầng cơ sở dân sự cuả đối phương. Và chính sự
kiên cường là quan trọng đặt biệt trong chiến tranh trên mạng, vì khi
mỗi phe càng giảm bớt khả năng bị tổn thương do đột kích, thì họ càng có
nhiều thì giờ nghiên cứu những gì thực sự diễn ra và giảm đi nguy hiểm
của vòng quay leo thang bất định.
Cảnh giác láng giềng
Bắt
nguồn từ tình hình căng thẳng đang gia tăng tại vùng biển Đông và Nam
Trung Quốc mà đối đầu trực tiếp quân sự giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong
tương lai gần là triển vọng khả dĩ nhất. Những kết ước về an ninh của
Hoa Kỳ với Nhật Bản và Phi Luật Tân, mà cả hai đang có tranh chấp lãnh
thổ với Trung Quốc, và ý muốn của Hoa Kỳ trong xác lập quyền giao thông
hàng hải trong khu vực (đã khởi đầu cho cuộc đụng độ giữa chiến hạm USS
Cowpens với chiến hạm Trung Quốc trong tháng chạp vừa qua) có thể buộc
Washington vướng vào trong tranh chấp, cho dù Hoa Kỳ không hề có yêu
sách về lãnh thổ trong khu vực. Những xung đột này dường như không thể
nào giải quyết được trong thời gian sớm nhất. Các quan tâm thực tế của
các phe hữu quan còn quá ít, một vài trong số những xung đột này có thể
được xử lý, khi có những ý muốn hỗ tương đủ mạnh để tiến hành. Nhưng các
phe phái dính liú dường như e sợ là bất cứ biểu hiện kiềm chế hay thích
nghi là dấu hiệu yếu đuối, đưa tới thái độ nhiều kiên quyết hơn trong
tương lai. Hành vi này làm cho tất cả thấy việc tìm cách ngăn ngừa khủng
hoảng ngay lúc đang phát sinh hay giữ thái độ kiềm chế là có tầm quan
trọng hơn.
Trung Quốc có thể tái tục bảo đảm về
những ý định của mình khi thoả thuận và áp dụng quy cách ứng xử đối với
biển Nam Trung Quốc do Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) đề
nghị. Kiềm chế việc điều quân và thoả thuận về các thủ tục hành quân sẽ
làm giảm đi các nguy cơ biến động hay tính toán sai lầm, tất cả làm cho
những kiên quyết trong thiện ý hiếu hoà của Bắc Kinh được khả tín hơn,
những thủ tục tương tự như vậy cũng có thể thoả thuận liên quan đến vụ
tranh chấp của các đảo Điếu Ngư/Senkaku. (Đây là một lĩnh vực mà Bắc
Kinh cần thay đối chính sách rộng lớn hơn, cũng có những lĩnh vực khác
mà gánh nặng về trách nhiệm bất tương xứng tạo cho Washington, thí dụ
như trong việc giảm bớt khuôn khổ lực lượng tấn công nguyên tử trong
việc phối hợp với Nga).
Ngoài ra, các giới chức
Hoa Kỳ và Trung Quốc cần thiết lập một cơ chế thông tin rõ ràng và trực
tiếp hơn trong khi có khủng hoảng. Từ năm 1998, cả hai nước thiết lập
đường dây nóng cho hai giới lãnh đạo liên lạc, nhưng họ ít có cuộc trao
đổi về lĩnh vực quân sự, mà phần lớn vì cảnh giác của Bắc Kinh trước
những kết ước này. Kể từ năm 1998, thoả ước quân sự khuyến khích mọi
hoạt động của mỗi quốc gia nên thông qua tham vấn với minh bạch, nhưng
không đề ra quy cách hành quân của lộ trình hay các hoạt động chiến
thuật đặc biệt. Thiết lập hình thức đường dây nóng để liên lạc về mặt
quân sự rập theo khuôn mẫu của Hoa Kỳ và Liên Xô trước đây sẽ tạo ý
nghiã hơn. Xét về mặt tối thiểu, cả hai nước sẽ có được một cơ chế tiếp
xúc toàn diện hơn cho giới lãnh đạo cao cấp, tạo thuận lợi thông tin
khẩn thiết trong những tình huống khủng hoảng.
Cả
hai phiá, và cũng có thể các tác nhân thuộc khu vực khác, có thể thoả
thuận về một hiệp ước quy định các đụng độ trên biển, tương tự như thỏa
thuận giữa Washington và Moscow trong thời Chiến Tranh Lạnh, không phải
chỉ dành cho hải quân mà còn cho các lực lượng tuần duyên và có thể cho
các thương thuyền. Cả hai phiá sẽ tiếp tục giám sát, một biện pháp hợp
pháp không thể né tránh và có thể tiến hành với mức độ nguy hiểm thấp
hơn. Thoả ước quy định để đảm bảo là các chiến thuyền không thể tới quá
gần các tàu thuyền khác và các phi vụ chuyển vận không được phép can dự,
và các tàu ngầm không được phép nổi lên và có những thái độ gây hại.
Về
các vấn đề khu vực, cho dù một cuộc chiến Triều Tiên khác có thể sẽ
không xảy ra, những biến động trên bán đảo này trong những năm gần đây
(thí dụ như chương trình của Bắc Hàn đang tiến hành về hạt nhân và
nguyên tử, việc nhận chìm hộ tống hạm Cheonam của Nam Hàn và pháo kích
vào đảo Yeonpyeong trong năm 2010) làm chúng ta nhớ là nguy cơ leo thang
của một cuộc chiến lan rộng còn liên tục xảy ra. Nếu khủng hoảng bùng
nổ như là hậu quả của những khiêu khích mới hay do Bắc Hàn sụp đổ, thì
việc Hoa Kỳ hay Trung Quốc phải can dự với tất cả những hậu quả bi đát
là chuyện dễ hình dung. Ngay từ bây giờ, nếu có những biện pháp thiết
thực làm cơ sở cho việc đối ứng nhịp nhàng trước một cuộc khủng hoảng có
thể xảy ra tương lai là một việc làm có ý nghiã.
Ít
nhất, mỗi phiá có thể tái tục đảm bảo với đối phương là kế hoạch phòng
chống khủng hoảng (kể cả bảo đảm an toàn cho các vật liệu hạt nhân của
Bắc Hàn hay phục hồi trật tự chính trị) là đem lại ổn định hơn là gây đe
doạ. Đối với Bắc Kinh, do dự đàm phán về những đề tài này vì sợ làm
thương tổn Bình Nhưỡng có thể né tránh được bằng cách khởi đầu hội luận
hai vòng, trước hết trong giới trí thức và giới chức nghĩ hưu. Bắc Kinh
phải nhận ra rằng khi bán đảo thống nhất, Seoul sẽ quyết định việc lưu
trú của quân lực Hoa Kỳ. Về phần mình, Washington phải đảm bảo với Bắc
Kinh là bố trí quân sự cuả Hoa Kỳ trong tương lai trên bán đảo (giả đoán
rằng Seoul vẫn còn muốn Hoa Kỳ hiện diện) phải ít hơn so với hiện tại
và không đặt thêm căn cứ nào hướng về hướng bắc như hiện nay. Cả hai
Seoul và Washington phải chuẩn bị mời Bắc Kinh giúp đỡ khi có những sự
cố bất ngờ trong tương lai, ít nhất là trong khu vực phía Bắc của Bắc
Hàn.
Dù các xung đột eo biển dịu đi trong những
năm gần đây, Đài Loan vẫn còn là một đề tài tranh luận trong mối quan
hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, một phần vì do Trung Quốc không từ bỏ sử
dụng bạo lực để thống nhất Đài Loan với Lục Điạ, một phần khác vì Hoa Kỳ
tiếp tục bán vũ khí cho Đài Bắc. Và căng thẳng dường như không thể
tránh được trước những bất đồng cơ bản trong quyền lợi của hai phiá. Vấn
đề là ở chỗ sự tái tục bảo đảm có thể giữ một vai trò. Đối với Bắc
Kinh, điều này có nghiã là cần làm cho chủ tâm tìm kiếm đường lối thống
nhất hiếu hoà thành khả tín, đặt giới hạn về việc hiện đại hóa quân sự
và ngưng thao diễn nhằm đe doạ Đài Loan thông qua việc phong toả tên
lửa. Đối với Washington, điều này có nghiã là đảm bảo việc bán vũ khí
cho Đài Loan là để phòng vệ và chứng tỏ ý muốn giảm bớt số lượng vũ khí
bán ra nhằm đáp ứng với giảm bớt tư thế hù dọa của Trung Quốc đối với
Đài Loan. Biện pháp giảm bớt này phải có ý nghiã, có thể được kiểm tra
và không thể đảo ngược.
Điều may mắn là cả hai
phiá đã theo đuổi những điểm chính trong chương trình nghị sự này. Tuy
nhiên, huy động tên lửa hiện nay của Bắc Kinh, và khả năng đáp ứng của
Washington giúp Đài Loan cải thiện hệ thống phòng vệ tên lửa, tạo ra
tiềm năng cho đợt leo thang mới – hoặc cũng có thể dẫn đến một vòng mới
về tái tục bảo đảm. Trung Quốc có thể khởi động tiến trình tái tục bảo
đảm một cách hữu ích khi giảm việc điều động các lực lượng tên lửa.
Nhiều tín hiệu nhưng ít ầm ĩ hơn
Điểm
mấu chốt tạo ổn định cho mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong
trường kỳ là mỗi phía phải giữ minh bạch về mức độ báo động thực sự và
hậu quả, ít nhất là trong những điều kiện chung, đồng ý phải trả một cái
giá cho sự bảo vệ. Còn về sự tái tục bảo đảm, quyết tâm mang lại thông
tin chính xác đòi hỏi nhiều vấn đề hơn là chỉ thuần về ngôn từ, việc này
liên hệ đến cả hai thể hiện ý muốn và khả năng cải thiện những đe doạ.
Điều
này có nghiã là Washington cần làm cho Bắc Kinh hiểu rằng Hoa Kỳ không
chỉ muốn bảo vệ lãnh thổ và dân chúng của mình mà còn cho những đồng
minh chính thức và đôi khi còn cho cả những người bạn mà không phải là
đồng minh. Những gì mà chính quyền Obama làm trong việc tái quân bình có
thể được hiểu một phần là theo chiều hướng này, nhưng để đạt được hiệu
quả, Hoa Kỳ cần tiếp tục theo đuổi và thực thi nghiêm chỉnh hơn là cho
phép mình xao lãng. Dĩ nhiên, biểu hiện quyết tâm không phải chỉ có
nghiã là giải quyết mỗi khiêu khích với cách đáp ứng bằng quân sự. Đôi
khi, có những đáp ứng không bằng phương cách quân sự, thí dụ như biện
pháp phong toả hay tạo cơ sở thoả thuận mới, có thể đem lại ý nghĩa
nhất, khi dùng thương thuyết để tạo những cách thích hợp hoặc những lộ
trình khác làm giảm khủng hoảng. Cách tốt nhất để thể hiện nghiêm túc
lòng kiên quyết trong trường hợp cụ thể sẽ tùy thuộc vào các yếu tố dị
biệt, kể cả mức độ phối hợp mà Washington có thể huy động với các đồng
minh và đối tác để đạt mục tiêu. Nhưng chuyện quan trọng là phải gởi tín
hiệu cho Bắc Kinh biết sớm hơn và rõ hơn là có những giới hạn không
được phép vi phạm và không bị trừng phạt.
Mặt
trái của biện pháp này là Hoa Kỳ cần hiểu và tôn trọng quyền tự quyết
của Trung Quốc trong việc bảo vệ quyền lợi sinh tử quốc gia, kể cả phải
sử dụng quân lực khi cần thiết. Khi định nghiã phù hợp việc bảo vệ quyền
lợi, thì quyền tự vệ chính đáng của Trung Quốc là sự xác quyết khả chấp
chiếu theo Điều 51 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc này đã gây ra
chuyện tổn thuơng trong quá khứ do tấn công và gây hấn; điều có thể hiểu
được đối với Trung Quốc khi thực hiện những biện pháp khả tín để giải
quyết. Khó khăn ở đây là trong những năm gần đây Bắc Kinh dường như
khẳng định một danh sách càng nhiều hơn về những quyền lợi cốt lõi và
thường có cách giải quyết gây hấn hơn, đưa các tranh chấp nhỏ và thông
lệ trở thành những cuộc đối đầu nguy hiểm và tạo ra những thử thách
không cần thiết về các giải quyết hỗ tương. Bắc Kinh cần công nhận rằng
qua thời gian, thái độ như thế làm giảm đi tính chính thống và buộc phải
tạo ra việc đòi những yêu sách quan trọng hơn, gởi những tín hiệu gây
tranh chấp và làm suy yếu những quyền lợi trường kỳ.
Mối
quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đang tiến gần đến một chuyển
điểm. Dưạ theo sinh hoạt lưỡng đảng lâu đời mà Hoa Kỳ đồng thuận để tìm
kiếm quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, hiện đã căng thẳng, và Trung Quốc
ngày càng bi quan nhiều hơn về tương lai của việc thương thảo song
phương. Sự trỗi dậy của Trung Quốc mà Hoa Kỳ xem như chuyện định mệnh đã
an bài có thể dẫn tới một sự chấp nhận đầu hàng về một thực tế mới hoặc
là đề kháng bằng sức lực chỉ nhằm bảo vệ đặc quyền xưa cũ – cả hai
chiến lược vừa không hứa hẹn và cuối cùng là tự đánh bại mình. Xây dựng
mối quan hệ dựa trên những nguyên tắc về tái tục bảo đảm chiến lược và
kiên quyết sẽ mang tới triển vọng một tương lai hứa hẹn hơn mà không gây
thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của đối phương. Thực ra, thay vì đơn
thuần hy vọng hay tạo kế hoạch về một niềm tin, cần phải có một phương
cách thay thế là “dù có tin tưởng nhưng cần phải kiểm tra”. Biện pháp
này vững chắc hơn, thay vì ngăn chận như xưa, bởi vì nó sẽ tìm cách giảm
những khả năng gây khiêu khích hay leo thang không có chủ tâm. Nếu có
may mắn, biện pháp này có thể giúp làm cách ly tranh chấp quy mô, sẽ đạt
đến một kết quả mà cả hai dân tộc khôn ngoan đang tìm kiếm.
J. B. S. & M. O’H.
James B. Steinberg là Trưởng Khoa Maxwell School of Citizenship and Public Affairs và là Giáo sư Khoa học Xã Hội, Quan hệ Quốc Tế và Khoa Luật, Đại Học Syracuse. Michael O’Hanlon là chuyên gia cao cấp tại Center for 21st Century Security and Intelligence và Giám Đốc Nghiên Cứu về Foreign Policy Program tại Brookings Institution.
Nguyên tác: Keep Hope Alive - How to Prevent U.S.-Chinese Relations From Blowing Up, Foreign Affairs July/August 2014. Tiểu luận này là một trích lược từ quyển sách “Strategic Reassurance and Resolve: U.S.-China Relations in the Twenty-first Century” (Princeton University Press, 2014) mà hai ông là tác giả.
Dịch giả gửi BVN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét