Boxitvn
Kirill Rogov
Phạm Nguyên Trường dịch
Lời người dịch: Sở thảo về kinh tế chính trị học của chủ nghĩa tư bản nửa mùa hay là những cạm bẫy vô hình nhưng vô cùng lợi hại mà các nước hậu cộng sản cần phải vượt qua.
Hiện nay có hai luồng ý kiến về chế độ xã hội và thể
chế chính trị của nước Nga được nhiều người chia sẻ. Thứ nhất, hiện
tượng tham nhũng tràn lan trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế
và xã hội và chất lượng cực kỳ thấp của tất cả các thiết chế hiện hành
(mà trước hết là các thiết chế pháp luật). Đấy là ý kiến của những người
có những quan điểm chính trị và địa vị xã hội khác nhau, cả người bán
hàng, người đối lập chính trị, quan chức cấp thấp lẫn các chính trị gia
đều đồng ý như thế. Thứ hai, luồng ý kiến này cũng rất thịnh hành, đấy
là: do những nguyên nhân khác nhau, hoàn cảnh này gần như không thể nào
thay đổi được.
Nói cách khác, việc công nhận tình trạng tồi tệ trong
lĩnh vực thực thi pháp luật lại không đi kèm với đòi hỏi phải có những
hành động hữu hiệu nhằm chấn chỉnh nó. Nhưng đấy không phải là nghịch lý
không thể giải thích được, các nhà kinh tế học gọi nó là bẫy thiết chế.
Những định chế tồi tạo ra cho nền kinh tế nhiều thiệt hại to lớn và gây
ra nhiều phiền toái cho người dân, nhưng dân chúng sẽ thích nghi; hơn
nữa, một số người còn tìm cách lợi dụng những thiết chế tồi tệ, trong
khi một số khác thì mất tự tin vào khả năng cạnh tranh của mình vì không
thể nào dự đoán được tình huống. Trong hoàn cảnh như thế, người ta dễ
nghĩ rằng cải thiện các thiết chế là việc làm quá tốn kém mà lợi ích thì
không rõ ràng, và vì thế, mặc dù ai cũng nhận thấy tác hại, nhưng lựa
chọn của họ lại là: giữ nguyên hiện trạng.
Dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng mô tả cơ chế hoạt động
của bẫy thiết chế và tính chất của chế độ đã được tạo ra và đang giữ
được ổn định trong giai đoạn hiện nay. Xin được gọi chế độ đặc thù này
là chế độ ràng buộc pháp lý mềm. Đây là thuật ngữ cố tình bắt chước
thuật ngữ ràng buộc ngân sách mềm của János Kornai, thuật ngữ được ông
dùng để mô tả những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Kornai cho rằng ràng buộc kinh tế mềm là khuyết tật căn bản của nền kinh
tế quốc doanh hoạt động theo kế hoạch, nó phản ánh tình trạng: xí
nghiệp không phải chịu trách nhiệm kinh tế về những hoạt động, vì có thể
được nhà nước lấy tiền ngân sách bao cấp cho các khoản chi phí của
mình. Như mọi người đều biết, luận điểm của Kornai có vai trò quan trọng
trong việc hình thành quan niệm về cách thức và những hạn chế của công
cuộc cải tổ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hồi cuối những năm 1980. Từ đây
nhất định sẽ dẫn đến chu kỳ “tự do hoá – ổn định – tư nhân hoá”, và
chắc chắn cũng sẽ dẫn đến việc chuyển từ chế độ ràng buộc kinh tế mềm
sang chế độ ràng buộc kinh tế cứng, như là công thức nhằm “đưa” chủ
nghĩa tư bản vào những nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Sử dụng thuật
ngữ tương tự như thuật ngữ của Kornai là chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng
câu chuyện đang được nói tới ở đây – ở khía cạnh nào đó – có thể được áp
dụng cho những vấn đề đã được người ta giải quyết trong vòng xoáy quốc
doanh hoá nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua. Nhưng để có thể định
nghĩa và giải thích mối quan hệ này, cần phải mô tả chế độ ràng buộc
pháp lý mềm trước đã.
***
Nói chung, chế độ ràng buộc pháp lý mềm là chế độ,
trong đó các điều luật (luật thành văn) không chỉ để cho người ta tôn
trọng mà còn để cho người ta vi phạm; nói cách khác, hành vi vi phạm
mang tính hệ thống. Không thể nói rằng luật pháp không vận hành trong hệ
thống đó, chúng có vận hành, nhưng vận hành theo một kiểu đặc biệt. Hệt
như trong một số kiểu chơi bài với mục đích là thu được càng nhiều quân
bài càng tốt, còn kiểu chơi khác thì bỏ được càng nhiều quân bài đi
càng tốt, có những chế độ mà giá trị của luật pháp là để người ta tôn
trọng, nhưng cũng có những chế độ mà giá trị của luật pháp là vi phạm
chúng, tất nhiên là vi phạm theo những luật chơi nhất định. Trong hệ
thống này, việc vi phạm luật pháp (xin nhắc lại) là có tính hệ thống,
nhưng được thực hiện theo những luật chơi nhất định. Có nghĩa là ở đây
việc vi phạm luật pháp chính thức được thực hiện theo những luật chơi
phi chính thức, và như thế, chế độ được nói tới ở đây khác hoàn toàn với
những tình huống khi mà luật pháp không được tôn trọng là do các định
chế cưỡng bức quá yếu, thí dụ như ở nước Nga nửa đầu những năm 1990.
Trong chế độ ràng buộc pháp lý mềm, nhà nước không phải không có phương
tiện cưỡng bức, còn sự kiện là hiện tượng vi phạm pháp luật trong hệ
thống này được thực hiện theo những luật chơi nhất định cho phép ta coi
hệ thống này là một hình thức đặc thù của trật tự (tình trạng ổn định),
trong nhận thức của xã hội thì trật tự này hoàn toàn không phải là tình
trạng vi phạm pháp luật tràn lan, không thể quản lý được.
Những qui định thành văn trong hệ thống này được làm
ra là để người ta có thể vi phạm, khi cần. Nghĩa là chúng được tạo ra
sao cho việc tuân thủ là khó và khá tốn kém, trong khi khả năng không
tuân thủ qui định lại tạo cho người ta lợi ích cạnh tranh đáng kể. Nói
các khác, các qui định trong hệ thống này được tạo ra nhằm khuyến khích
người ta vi phạm. Kết quả là toàn bộ đời sống của xã hội được hình thành
như một cuộc mặc cả bất tận, các thành viên của xã hội mặc cả để có
quyền vi phạm những điều luật nhất định, họ sẽ được lợi khi vi phạm
những điều luật đó. Nhà nước, mà đại diện là bộ máy quan liêu, hoạt động
như một cửa hàng chuyên bán cho các cá nhân quyền vi phạm các điều
luật.
Mỗi cấp chính quyền đều có quyền bán quyền vi phạm
một số điều luật nhất định và dĩ nhiên là để có thể bán quyền thì cơ
quan đó cũng có quyền trừng phạt những vi phạm chưa được cấp phép. Cần
phải nhấn mạnh sự khác biệt này: cơ quan quản lý hành chính, quan liêu
không giám sát việc tuân thủ luật lệ mà chỉ trừng phạt những hành vi vi
phạm chưa được cấp phép mà thôi. Vì vậy mà nó cũng không quan tâm đến
việc hoàn thiện những biện pháp quản lý và kiểm tra, kiểm soát; đối với
nó, điều quan trọng không phải là giảm thiểu những trường hợp vi phạm và
động cơ vi phạm mà là tạo ra khu vực mặc cả quyền vi phạm.
Xin lấy Cảnh sát giao thông làm thí dụ. Cảnh sát giao
thông không quan tâm, ai, ở đâu và có bao nhiêu vụ vi phạm luật giao
thông; nó cũng không có nhiệm vụ đưa ra những biện pháp có tính hệ thống
nhằm giảm số vụ vi phạm, thí dụ như giảm động cơ vi phạm hay sử dụng
các hệ thống kiểm tra tự động. Điều quan trọng đối với Cảnh sát giao
thông là toàn bộ các nhân viên của nó đều được phân công đến những điểm
mà luật giao thông hay bị vi phạm để họ mặc cả về những vi phạm đó. Sự
kiện là Cảnh sát giao thông hầu như không tuần tra đường quốc lộ và
đường phố như cảnh sát nhiều nước vẫn làm mà thường đứng ở những điểm
nhất định là minh chứng cụ thể cho điều đó. Nói cách khác, Cảnh sát rất
ít quan tâm đến việc kiểm soát việc giao thông trên đường và theo dõi
những vụ vi phạm có thể tạo ra nguy cơ thực sự (thí dụ như lái xe hung
hãn và không đúng luật). Không những không tuần tra, Cảnh sát giao thông
lại thích sử dụng phương pháp “cổ chai”, tức là đứng ở một chỗ nào đó
và kiểm tra một vài qui định chỉ liên quan đến an toàn giao thông một
cách gián tiếp (thí dụ như giấy tờ và bằng lái xe, phiếu kiểm định và
bảo hiểm).
Nói chung, trong hệ thống mà ta đang nói tới, người
ta đồng thời vừa lên án vừa biện hộ cho những vụ vi phạm pháp luật. Cùng
với những qui định chính thức, còn có những qui định không chính thức;
vi phạm các qui định chính thức được cho là cố ý, nhưng không thể tránh
được, được mọi người chấp nhận và tha thứ. Những hành vi vi phạm pháp
luật trong hệ thống này không những không bị che dấu đi mà còn được
người ta tuyên truyền rộng rãi nữa. Điều kiện quan trọng cho việc chính
danh của chế độ này chính là niềm tin của xã hội rằng vi phạm pháp luật
xảy ra khắp nơi, có khả năng là trong quan niệm của người dân mức độ vi
phạm pháp luật còn cao hơn thực tế nữa. Nhưng quan niệm cho rằng vi phạm
pháp luật diễn ra tràn lan lại là biện pháp quan trọng nhằm tạo ra
trong đầu óc dân chúng khuôn mẫu mang tính xã hội và tiêu chuẩn hành
động: kết quả là những cố gắng nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật
hoặc đòi hỏi phải thay đổi đều có vẻ như chẳng ăn nhập gì với cuộc sống
hay là những việc vớ vẩn, là những cố gắng vô ích trong cuộc đấu tranh
với truyền thống.
Quan niệm cho rằng vi phạm pháp luật diễn ra khắp nơi
cũng là một thành tố quan trọng của tổ chức chính trị và tính chính
danh chính trị của chế độ mà ta đang nói tới. Nhờ có quan niệm như thế
mà về mặt tham nhũng, các giai tầng bên trên không ở thế đối đầu với các
giai tầng bên dưới (theo nghĩa rộng của từ này), mà dường như chúng còn
liên kết với nhau trong một khuôn khổ thống nhất của những khả năng
tham nhũng. Vì vậy mà những câu chuyện bất tận về tham nhũng, việc lên
án tham nhũng diễn ra khắp nơi không làm mất tính chính danh của cơ cấu
thang bậc đã được thiết lập, mà hơn thế, còn củng cố nó và phục vụ cho
mục đích tuyên truyền và củng cố tính chính danh của cái trật tự có thật
và không thể khắc phục được này (trong khi trật tự pháp luật lại bắt
đầu bị người ta có là bịa đặt và hư ảo).
Luật cho phép vi phạm các điều luật thành văn mỗi
lúc, mỗi nơi mỗi khác và đấy cũng là một đặc trưng quan trọng của hệ
thống, tạo cho nó sự ổn định, mềm dẻo và thậm chí là cả khả năng cạnh
tranh nữa. Thứ nhất, sự biến hóa của luật cho phép vi phạm luật pháp
không cho đối tượng đã được ban cho quyền vi phạm luật được quyền tự
tung tự tác, hắn phải giữ và thường xuyên cập nhật mối liên hệ với hệ
thống và trật tư hiện hành. Ngoài ra, sự biến hóa còn tạo ra hình thức
cạnh tranh đặc thù trong hệ thống: những kẻ được lợi và những kẻ giữ vị
trí quán quân trong vòng này chưa chắc đã giữ được vị trí đó trong vòng
sau. Hơn thế nữa, cách mặc cả quyền vi phạm pháp luật áp dụng thành công
nhất trong giai đọan này lại thường bị tuyên bố là cấm trong giai đọan
sau.
Thứ hai, sự biến hóa của luật cho phép vi phạm pháp
luật là điều kiện quan trọng cho sự hình thành thang bậc của cơ cấu quản
lý và tổ chức chính trị của xã hội. Dễ hiểu là trong hệ thống, nơi mà
luật pháp bị vi phạm, nhưng luật cho phép vi phạm lại thường xuyên thay
đổi thì người kiểm soát được qui trình thay đổi của luật cho phép vi
phạm pháp luật chính là kẻ có quyền lực cao nhất. Kết quả là hệ thống sẽ
có ba tầng sau đây: 1. Những người mặc cả quyền vi phạm pháp luật (đối tượng được phép/không được phép vi phạm); 2. Những người bán quyền vi phạm điều luật cụ thể nào đó (cơ quan thực hiện); 3.
Những người kiểm soát sự thay đổi của luật cho phép vi phạm luật pháp
và đấy cũng là những người vi phạm và kẻ bán quyền vi phạm (cấp lãnh đạo
chính trị).
Đặc trưng này của chế độ ràng buộc pháp lý mềm giúp
ta giải thích vì sao “cuộc chiến đấu trường kỳ với tham nhũng” lại cũng
là thành tố củng cố cho sự ổn vững của chế độ. Cũng như các hệ thống
kiểm tra kiểm soát khác, mục đích của “cuộc chiến đấu chống tham nhũng”
không phải là đào tận gốc, trốc tận rễ nó mà chỉ là giữ cho hệ thống
buôn bán quyền vi phạm pháp luật họat động mà thôi, thực chất, “cuộc
chiến đấu chống tham nhũng” chính là bộ phận điều tiết họat động tham
nhũng được cấp phép, buộc cơ quan thực hiện phải mặc cả với cấp trên,
tức là cấp lãnh đạo chính trị, về quyền bán quyền vi phạm pháp luật của
mình.
Tóm lại, chế độ ràng buộc pháp lý mềm là chế độ có
những qui định pháp luật, nhưng đấy là những qui định có thể vi phạm;
chúng hoạt động theo chế độ “tắt/bật” [switch on/ switch off], và đấy
chính là chức năng của chúng. Cũng như trong trường hợp ràng buộc ngân
sách mềm của Kornai, tính từ mềm ở đây phản ánh tình trạng có tính
nguyên tắc là những ràng buộc do luật thành văn qui định chỉ là đối
tượng mặc cả theo chiều dọc [vertical bargaining]; còn hệ thống pháp
luật thành văn chỉ là cái khung, qui định đối tượng, điều kiện và các
thông số của cuộc mặc cả. Nếu việc tham gia vào hệ thống mặc cả theo
chiều dọc để mua quyền vi phạm pháp luật trở thành hiện tượng phổ biến
thì xã hội sẽ không còn quan tâm đến việc chuyển sang trạnh thái khác
nữa. Bất cứ người nào, sau khi nhận được quyền vi phạm pháp luật, đều có
một số ưu thế tương đối và vì vậy mà tỏ ra bàng quan, thậm chí không
quan tâm tới việc tối ưu hóa hay làm cho các điều luật trở thành bớt
nghiêm khắc hơn vì việc đó có thể làm mất giá những lợi thế mà anh ta đã
nhận được và làm mất những khỏan đầu tư mà anh ta đã bỏ ra trong cuộc
mặc cả trước đó. Điều này càng đặc biệt quan trọng khi ta xem xét tác
động của chế độ ràng buộc pháp lý mềm đối với nền kinh tế và chỉ ra cơ
chế kinh tế của bẫy thiết chế của chế độ ràng buộc pháp lý mềm.
Nguyên nhân của hiện tượng ràng buộc ngân sách mềm
(trong quan niệm của Kornai) là sở hữu nhà nước, chính vì vậy mà ngân
sách nhà nước buộc phải bao cấp cho những khỏan chi phí của doanh
nghiệp. Có thể giả định rằng việc hình thành và tồn tại của chế độ ràng
buộc pháp lý mềm cũng có liên quan với những tính chất đặc thù của quan
hệ sở hữu đã định hình cho đến nay.
Trong hệ thống này, sở hữu tư nhân chỉ có tính chất
giới hạn: tồn tại về mặt pháp lý nhưng không được xã hội công nhận. Xã
hội coi quyền sở hữu như là trường hợp cá biệt và là kết quả của việc sử
dụng quyền vi phạm pháp luật, là sự hợp pháp hóa và tiền tệ hóa quyền
nói trên. Vì vậy mà việc mất sở hữu vì mất quyền vi phạm pháp luật cũng
được xã hội coi là hợp pháp. Kết quả là trong hệ thống đó, sở hữu, một
mặt, được quản lý như tài sản tư nhân, theo nghĩa là người chủ sở hữu
danh nghĩa có quyền thu và sử dụng lợi tức do tài sản mang lại; nhưng
tài sản cũng có thể bị mất không chỉ là do những điều khỏan nào đó của
hợp đồng mà vì người chủ đã mất quyền vi phạm pháp luật.
Rõ ràng là hệ thống, trong đó sở hữu được quản lý như
sở hữu tư nhân nhưng lại có thể bị tước đọat, đòi hỏi phải có chế độ
pháp lý hai mang. Một mặt, cần phải có luật pháp thành văn, bảo đảm cho
việc thực hiện các hợp đồng trong khuôn khổ những mối quan hệ theo chiều
ngang, liên quan đến việc sử dụng sở hữu (tín dụng, cung ứng, mua
bán…), ở đây người chủ sở hữu hành động như người chủ hợp pháp trong
quan hệ với đối tác (luật pháp chính thức ở chế độ bật [switch on]). Mặt
khác, ở đây sở hữu là thành tố của hệ thống mặc cả theo chiều dọc về
quyền vi phạm pháp luật, và trong khuôn khổ của hệ thống này, sở hữu có
thể bị tước đọat và đưa vào quá trình phân phối lại quyền sử dụng (luật
pháp chính thức ở chế độ tắt [switch off]).
Vấn đề chúng ta phải giải quyết và biện hộ cho việc
sử dụng thuật ngữ của Kornai nằm ở câu hỏi sau đây: xí nghiệp sẽ gặp
phải chuyện gì nếu ràng buộc ngân sách mềm đã không còn, nghĩa là việc
“khởi động” chủ nghĩa tư bản đã được thực hiện, nhưng lại có những ràng
buộc pháp lý mềm, nghĩa là về nguyên tắc có thể bỏ qua phần lớn các hạn
chế được qui định trong luật thành văn? Ràng buộc ngân sách cứng nghĩa
là doanh nghiệp không thể dùng những khỏan tài trợ từ bên ngòai để trang
trải cho những chí phí của mình nữa (đúng hơn, về nguyên tắc là không
vì trong chế độ ràng buộc pháp lý mềm vẫn có thể có những trường hợp
ngọai lệ), nghĩa là doanh nghiệp buộc phải tham gia vào hệ thống quan hệ
thị trường theo chiều dọc và tìm mọi cách nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Theo nghĩa này, nhiệm vụ căn bản của quá trình “khởi động” chủ nghĩa tư
bản đã được giải quyết xong. Nhưng đồng thời xí nghiệp cũng có thể sử
dụng quyền vi phạm pháp luật nhằm giảm bớt quản lý phí và các chi phí
gián tiếp khác, tạo ra ưu thế trên thương trường và kết quả là gia tăng
được lợi nhuận so với hiệu quả kinh tế thực sự của mình. Hòan tòan có lý
khi giả định rằng quản lý phí và các chi phí gián tiếp của các xí
nghiệp khác cao hơn xí nghiệp được nói tới bên trên. Nghĩa là lợi nhuận
của các xí nghiệp nghiệp đó thấp hơn, đấy là nói khi hiệu quả kinh tế
của các xí nghiệp là như nhau. Kết quả là, thứ nhất, lợi nhuận được tái
phân phối giữa các xí nghiệp vì quản lý phí và các chi phí gián tiếp
được chia không đều; và thứ hai, lợi nhuận và sự thăng giáng của lợi
nhuận không phản ánh một cách trực tiếp hiệu quả và sự thăng giáng hiệu
quả kinh tế của xí nghiệp.
Về mặt lý thuyết, có thể giả định rằng người chủ
doanh nghiệp sẽ cố gắng tìm cách gia tăng lợi nhuận bằng cả hai cách:
thứ nhất, giảm quản lý phí và các chi phí gián tiếp và thứ hai, tăng
hiệu quả kinh tế. Nhưng những đặc điểm của chế độ mà ta bàn tới bên trên
lại làm cho người ta thích cách thứ nhất hơn. Vấn đề là, quyền sở hữu ở
đây được định nghĩa như là quyền sử dụng lợi nhuận, còn chính sở hữu
thì có thể bị tước đọat. Đầu tư cho việc mua quyền vi phạm pháp luật là
đầu tư làm gia tăng ngay lập tức lợi nhuận, còn đầu tư cho việc gia tăng
hiệu quả sản xuất lại là đầu tư vào tài sản mà đặc trưng chủ yếu của nó
là có thể bị tước đọat bất cứ lúc nào. Đầu tư như thế là quá mạo hiểm
vì bạn đang đầu tư cho lợi nhuận trong tương lai mà lúc đó bạn có thể
không còn quyền sở hữu khối tài sản đó nữa. Tạo ra doanh nghiệp với hiệu
suất quay vòng vốn cao là bạn đang gia tăng nguy cơ bị tước quyền sở
hữu và bạn phải đầu tư thêm nhằm bảo vệ quyền sử dụng khối tài sản đó.
Trong khi đó, đầu tư cho quyền vi phạm pháp luật là đầu tư không chỉ làm
gia tăng lợi nhuận tức thời mà về nguyên tắc khi tài sản bị tước đọat
thì nó cũng không tự động chuyển giao cho người chủ mới, như vậy nghĩa
là khỏan đầu tư này làm giảm đi nguy cơ bị tước đọat sở hữu của chính
bạn. Lợi nhuận của doanh nghiệp càng phụ thuộc vào những điều khỏan đặc
biệt trong hợp đồng giữa người chủ và người quản lý thì việc chuyển
quyền quản lý càng khó khăn hơn, và ngược lại. Điều đó quyết định cách
thức lựa chọn giữa hai biện pháp nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Như chúng ta đã thấy, mối liên hệ giữa chế độ ràng
buộc pháp lý mềm và đặc thù của sở hữu mang tính hai mặt. Đặc thù của sở
hữu thúc đẩy người ta đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận tức thời và giảm
bớt những khỏan đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai. Nhưng,
trong khi tìm cách bảo đảm và gia tăng lợi nhuận bằng những biện pháp
phi kinh tế (bằng cách vi phạm pháp luật), người chủ sở hữu danh nghĩa
cũng đồng thời củng cố chế độ mà quyền sở hữu của anh ta bị hạn chế.
Chuyện đó xảy ra như thế nào? Một mặt, tham gia mặc
cả quyền vi phạm pháp luật là anh ta đang đánh mất sự ủng hộ của xã hội
đối với quyền sở hữu của mình. Mặt khác, trong tình hình khi mà lợi
nhuận không phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh tế thì người sở hữu không
có khái niệm rõ ràng về hiệu quả kinh tế của công việc kinh doanh của
mình. Thí dụ, doanh nghiệp họat động có hiệu quả nếu lợi nhuận tăng
15-20% một năm mà chi phí chỉ tăng 5-7%. Nhưng nếu giả sử rằng ba phần
tư khỏan gia tăng lợi nhuận là do những tác nhân ngòai kinh tế (ràng
buộc pháp lý mềm) thì hóa ra trên thực tế hiệu quả của doanh nghiệp đã
giảm. Kết quả là người chủ sở hữu phụ thuộc vào hệ thống phân phối quyền
vi phạm pháp luật: anh ta không biết nếu không có hệ thống này thì anh
ta có đủ sức cạnh tranh hay không và có thể bù đắp được chi phí hay
không. Thời gian càng kéo dài và doanh nghiệp càng thành công trong chế
độ ràng buộc pháp lý mềm thì sắc xuất là anh ta không làm được càng
tăng, và chính anh ta cũng tin như thế. Đấy gọi là hiệu ứng “cái lồng
vàng”.
Nhưng ta sẽ thấy rõ hậu quả quan trọng nhất của chế
độ ràng buộc ngân sách mềm khi xem xét vấn đề không phải từ quan điểm
hậu quả đối với doanh nghiệp mà từ quan điểm hậu quả đối với thị trường
nói chung. Như chúng ta đã thấy, sự tồn tại và vị trí của doanh nghiệp
được quyết định không phải chỉ bởi cân bằng cung – cầu (quan hệ thị
trường theo chiều ngang) mà còn bởi những điều kiện của “cuộc mặc cả
theo chiều dọc” về quyền vi phạm pháp luật nữa. Việc mua quyền này chỉ
có ý nghĩa nếu những người tham gia thương trường khác bị luật thành văn
ràng buộc. Nghĩa là hệ thống “mặc cả theo chiều dọc” họat động như một
bộ lọc, chỉ cho một số doanh nghiệp nào đó tiếp cận với một số lĩnh vực
nào đó của thị trường mà thôi. Trong trường hợp này, đầu tư của danh
nghiệp để mua quyền vi phạm pháp luật không còn là chi phí phụ trội nữa
vì người tiêu dùng sẽ phải trả.
Trong chế độ ràng buộc ngân sách cứng thì chỉ có
người mua mới có thể hòan trả cho doanh nghiệp những chi phí mà họ đã bỏ
ra để mua quyền vi phạm pháp luật. Vì vậy, giá bán trong chế độ ràng
buộc pháp lý mềm sẽ cao hơn là khi nó được quyết định bởi cung cầu trên
thị trường (quyết định bởi những điều kiện “mặc cả theo chiều ngang”).
Người tiêu dùng phải trả chi phí mua quyền vi phạm pháp luật của doanh
nghiệp cũng như phải trả giá cho hiệu quả ngày càng thấp của doanh
nghiệp. Điều đó phần nào giải thích vì sao doanh nhân họat động trong
khuôn khổ của hệ thống này không coi chế độ ràng buộc pháp lý mềm là trở
ngại đối với quá trình kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp: chi
phí cho việc mua quyền vi phạm pháp luật được chuyển sang cho người tiêu
thụ. Kết quả là doanh nhân mua được quyền vi phạm pháp luật cảm thấy
điều kiện cạnh tranh có vẻ dễ dàng hơn, chỉ cần tập trung vào lợi nhuận
tức thời và nếu chấp nhận khả năng bị tước mất quyền sở hữu trong tương
lai thì ông ta sẽ là người hòan tòan hạnh phúc. Nếu các cá nhân tham gia
vào hệ thống mặc cả để mua quyền vi phạm pháp luật không còn quan tâm
đến hệ thống trong đó mọi qui định đều đơn giản và được tuân thủ thì
người nắm quyền sở hữu cũng không quan tâm đến việc bảo đảm quyền sở hữu
một cách lâu dài, nhưng bù lại, người ta lại thu được lợi nhuận tức
thời cao hơn.
***
Trong quan niệm của những nhà cải cách xã hội cách
đây hai mươi năm thì việc “khởi động” chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là
thông qua cơ chế ràng buộc ngân sách cứng nhất định sẽ biến doanh nghiệp
thành chủ thể độc lập trong các quan hệ thị trường (đưa doanh nghiệp ra
khỏi hệ thống mặc cả theo chiều dọc). Đến lượt mình, các quan hệ mới sẽ
dẫn đến việc hình thành những định chế nhằm duy trì và bảo vệ cạnh
tranh vì chỉ có như thế doanh nghiệp mới có thể thu được lợi nhuận tối
đa. Trên cái nền như thế, chế độ ràng buộc pháp lý mềm trông sẽ chẳng
khác gì cơ chế bù trừ: nó có tác dụng làm giảm hiệu quả của chế độ ràng
buộc ngân sách cứng.
Tính cứng rắn của ràng buộc ngân sách đã khởi động cơ
chế trách nhiệm của doanh nghiệp và khuyến khích họ tìm kiếm lợi nhuận;
đồng thời cơ chế ràng buộc pháp lý mềm lại tạo điều kiện cho người ta
phân bố lại lợi nhuận giữa các doanh nghiệp, bất chấp hiệu quả kinh tế
của chúng và như vậy cũng có nghĩa là đã giữ lại nguyên tắc mặc cả theo
chiều dọc, nhưng lần này không phải là mặc cả về chi phí mà là mặc cả về
lợi nhuận. Kết quả là, cơ chế đó cản trở quá trình hình thành quyền sở
hữu một cách đầy đủ, làm giảm động cơ đầu tư nhằm nâng cao hiệu suất
họat động sản xuất kinh doanh (đặc biệt là làm giảm những khỏan đầu tư
dài hạn), giảm hiệu quả của doanh nghiệp trong dài hạn và làm tăng giá
trên thị trường.
Vì cơ chế ràng buộc ngân sách cứng vẫn họat động cho
nên doanh nghiệp không thể họat động với hiệu suất âm – doanh nghiệp sẽ
bị phá sản. Kết quả là “cái chủ nghĩa tư bản nửa vời” này có nhiều khả
năng sẽ sống sót và tự tái tạo lại mình mặc dù không có điều kiện phát
triển. Từ quan điểm hiệu suất kinh tế, có thể nói rằng doanh nghiệp sẽ
tiến đến tình trạng cân bằng “bên trên số không một chút”. Điều này tạo
ra nguy cơ là tình trạng “mập mờ” cùng với tiềm lực phát triển thấp sẽ
được duy trì trong thời gian dài. Dĩ nhiên là đến một lúc nào đó sự kém
hiệu quả của những doanh nghiệp được ưu tiên ưu đãi sẽ biến chúng thành
những kẻ “ăn” vào lợi nhuận do nền kinh tế tạo ra. Nhưng hệ thống có thể
hi sinh các doanh nghiệp đó. Vì không phải những “ông trùm” (quán quân
về quyền vi phạm pháp luật) mà là bộ máy quan liêu có quyền bán quyền vi
phạm pháp luật mới là những kẻ được lợi nhất trong hệ thống này. Sức
mạnh của nó không chỉ được thể hiện ở sự tồn tại của những “ông trùm” cụ
thể, mà trước hết được thể hiện ở quá trình “tạo ra những ông trùm”
đang diễn ra liên tục. Tiềm lực của chế độ ràng buộc pháp lý mềm thể
hiện đầy đủ nhất trong quá trình “tạo ra các ông trùm” và vì vậy mà một
số “ông” sẽ phải biến khỏi vũ đài.
Như vậy là, nói chung, có thể nói rằng chế độ ràng
buộc pháp lý mềm tạo điều kiện cho việc hình thành hệ thống, trong đó có
hai kiểu lý lẽ cùng song song tồn tại: lý lẽ của những quan hệ thị
trường theo chiều ngang và lý lẽ của “mặc cả theo chiều dọc”, giữ vai
trò tái phân phối – bên ngòai quan hệ thị trường – các nguồn lực và lợi
nhuận giữa các xí nghiệp. Chế độ ràng buộc pháp lý mềm là cái công tắc
cho phép người ta chuyển từ lý lẽ này sang lý lẽ kia. Lý lẽ thứ nhất, mà
cụ thể là nguyên tắc ràng buộc ngân sách cứng tạo điều kiện cho nền
kinh tế tạo ra lợi nhuận, lý lẽ thứ hai giúp người ta tái phân phối lợi
nhuận thu được.
K.R.
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga, nguồn: http://www.inliberty.ru/blog/krogov/2471/
Dịch giả gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét