Boxitvn
Nguyễn Hữu Liêm
“Nếu không dấn thân vào biến cố, mà chỉ đứng ngoài
để diễn tả tình thế, cho dù chính xác bao nhiêu, cũng chẳng tạo nên
được một tác dụng giải phóng nào – và cuối cùng thì việc ấy cũng chỉ làm
cho gánh nặng dối trá càng thêm áp bức, hay nói như Mao, cũng như đã
nâng tảng đá lên rồi chỉ để thả nó xuống ngay vào chân mình” – Slavoj Zizek, Living in the End Times (2010).
Nếu ai đã có lần đi xe đò xuyên Việt trong những năm
gần đây, như tôi đã trải qua đầu năm nay, đều chắc phải có một cảm xúc
lạ lùng đầy thú vị. Một đằng thì trái tim tôi cứ thót đi từng chặp vì
những lần xe vượt qua mặt, tranh đường, lạng lách, suýt đụng “head-on”
với các xe tải chạy ngược chiều trên quốc lộ hẹp nhưng đầy xe cộ, người,
thú vật và hàng trăm thứ vật liệu khác. Đằng kia thì khi nhìn ra ngoài
cửa xe tôi thấy cảnh vật, núi rừng, đồng ruộng, làng xóm trong cảnh xế
chiều đẹp không thể tả. Người đi xe chấp nhận khả thể hiểm nguy như là
một con cờ số phận, hy vọng vào xác suất rủi may – và người tài xế không
ngủ gục. Cảnh đẹp bên ngoài hòa với nhịp tim đập trong hãi sợ tạo nên
một niềm hoan lạc kỳ thú – một mạo hiểm với chính định mệnh không biết
là gì của cuộc sống. Một mặt thì thân xác đang đùa với khả năng tai nạn
thảm khốc như là một thể tính trừu tượng thuần lý tính của cái có thể
là; mặt kia thì tâm hồn và thân xác đang thưởng thức cung điệu bình an
hiện thực đang là của làng xóm quê nhà phủ trong ánh nắng vàng hoàng
hôn. Hai khuôn mặt, của thực nghiệm đang là và khả năng có thể là từ tư
duy, trộn lẫn vào nhau làm cho con người trong cuộc như đang ăn một trái
ớt tươi cay nồng nhưng rất thơm tho cho một tô bún đầy hương vị sống
chan đầy chua, bùi, ngọt, đắng.
Và, theo tôi, đó cũng chính là màu sắc, hương vị và
cung nhịp của trí thức Việt hôm nay, 2014, đối với chuyện nước nhà, xã
hội. Hình như rằng tâm tư của các tầng lớp trí thức Việt Nam đã bị điều
kiện hóa, nhưng chưa được định hình, từ một quá khứ tang thương, nhưng
lẫy lừng, nhiều hãnh diện về dân tộc. Lịch sử, đối với họ, như là một
thể tính trừu tượng của bản ngã, nhưng họ đang mang đầy thất vọng về khả
thể của con người Việt Nam nhằm thiết lập một thể chế chính trị có khả
năng và bản sắc đại diện từ một quá khứ oai hùng đó. Những người cha và
các đứa con của “thế hệ Vàng” thời Việt Minh chống Pháp, “thế hệ Xanh”
thời Việt Cộng chống Mỹ bắt đầu nhìn lại chính mình và con đường mà
chuyến xe lịch sử dân tộc đang đi trong sự tương nghịch giữa hai vế:
hiểm nguy như là khả thể tính, bị cắt nhịp theo từng khoảnh khắc bởi
khoái lạc từ đời sống thân xác đang là.
Khi trí thức Việt nhìn ra Biển Đông với những con
“tàu lạ” Trung Quốc như là những chiếc xe tải hung hăng ngược chiều có
thể đụng nát giết chết tất cả; khi nhìn vào đồng bằng sông Cửu Long và
nhìn thấy dòng nước đang cạn dần, một nền văn minh sông nước đang dần
biến mất; nhìn lên cao nguyên Trung phần và khắp nơi để thấy núi rừng,
đất đai quặng mỏ đang bị khai thác bởi người Hoa bất chấp những hiểm họa
môi trường. Họ nhìn vào việc nước, về giáo dục, về chính trị, công
quyền, về con người, cán bộ, về văn nghệ sĩ, giới trẻ, giới doanh nhân,
họ chỉ thấy một toàn cảnh u ám, thối rửa, băng hoại, lạc hướng, hỗn độn,
xuống cấp không còn phương cứu chữa. Lịch sử dân tộc, theo họ, đang bị
nhận chìm bởi một trình độ chất lượng tổng thể đang đi xuống bùn đen.
Một giai thời khủng hoảng nhân văn, của nhân phẩm con người, của hệ
thống và cơ chế chính trị và công quyền, cộng thêm mối hiểm nguy xâm
lăng từ bên ngoài. Theo họ, thì chưa bao giờ dân tộc ta đang đi qua một
giai đoạn lịch sử đen tối và bi đát như bây giờ.
Đây là một đoạn đường lịch sử của cái xấu. Những “tin
tức xấu xa” này, theo trí thức Việt ngày nay, sẽ không theo quy luật
biện chứng của Marx để có thể đưa đến cái tốt. Theo Marx, khi muốn có
một cuộc cách mạng toàn diện thì tình thế đang là phải càng có nhiều tin
tức xấu thì “càng tốt” vì chúng sẽ tạo thêm biện minh và gia tăng cường
độ cho ý chí đổi thay toàn diện và sâu rộng. Nhưng trí thức Việt không
chấp nhận biện chứng này. Không phải là họ không nắm được Dịch lý “cùng
tắc biến”. Trái lại, họ thấy trong đống hỗn độn của cái xấu hôm nay,
chiều sâu tận đáy của cái xấu vẫn còn chưa tới, và chắc chắn là sẽ đến.
Vì đây là một khủng hoảng nhân văn, về nhân cách và linh hồn con người
Việt Nam. Những tin xấu này sẽ không đưa đến cách mạng cho cái tốt được
khai sinh, con chim cú Minerva sẽ không tung cánh vươn bay trong bóng
chiều tà – khi mà con người Việt Nam đã đánh mất hết nhân cách bản thân,
bị đánh cắp lòng yêu nước, thiếu tự tin vào ý chí lịch sử. Họ chỉ còn
nhìn thấy cá nhân chính mình, những “tâm hồn cao thượng” tách biệt trong
một cám dỗ hay bức xúc đơn thể không có chiều sâu tập thể – khi giá trị
xã hội và cộng đồng đã có một cơ chế nhà nước, một “giáo hội chính trị”
vốn tự cho mình không thể sai lầm, chắc nịch cầm cương thay cho cá
nhân. Và các thế hệ Vàng và Xanh của thế kỷ trước đầy kiêu hãnh và hy
vọng ngông cuồng nay tự gặm nhấm nỗi buồn hệ luỵ trước một gia tài lịch
sử mà mình đã hết lòng gây dựng nên. Việt Nam bây giờ còn hơn là một bi
kịch nữa anh ạ – một trí thức Hà Nội nói với tôi – nó là một vở hài kịch
không có nội dung, không có hồi kết thúc! “Comedy is indeed deeper and
truer than tragedy”, tôi nhớ đến một triết gia đã nói như thế.
Tuy nhiên vở hài kịch này là của lý tính, chứ không
phải là từ kinh nghiệm cá thể thực tại. “What is rational is not the
actual” – trái với công thức siêu hình của Hegel. Như là người hành
khách trên chuyến xe Bắc Nam kia khi nhìn qua cửa sổ, thay vì suy tư
trong lý tính đến khả thể tai nạn hiểm nguy, người trí thức Việt Nam
đang trong thực tại thân xác, an hưởng chính mình, đến một biên độ phi
chính trị và phi công dân rất rõ rệt, trong một hoàn cảnh sống hòa bình,
tương đối an nhàn, và được xã hội trọng vọng. Hầu hết đều có công ăn
việc làm, hay đã nghỉ hưu, có nhà cửa, gia đình yên ổn.
Chưa bao giờ giới sĩ phu văn nghệ sĩ Việt Nam được
tham dự vào nhiều tiệc rượu ngon và vui như thế. Ở các thành phố lớn,
cũng nói theo Hegel, “Chân lý là những tiệc rượu say mèm mà ở đó chả có
ma nào tỉnh thức”. Nhìn đâu cũng thấy một tầng lớp giàu sang mới sẵn
sàng mời trí thức làm trang điểm thi văn. Và hơn nữa, trong men rượu say
cuồng, người trí thức có thể hãnh diện đứng giữa bàn tiệc mà vỗ ngực
nguyền rủa hệ thống, đổ lỗi hết trách nhiệm cho giáo hội chính trị. Còn
chính ta này được có quyền say sưa vì tư cách và ý chí công dân của ta
nay đã bị tước đoạt bởi Đảng cùng với lý tưởng lịch sử dân tộc cũng đã
bị bán cho nhà thổ nhân danh giáo điều tư tưởng. Như một vị giáo sĩ giáo
hội La Mã thời trung cổ đổ thừa cái hư của ta, cái hỏng của thế gian là
bắt nguồn và là trách nhiệm từ hệ luỵ quyền lực bóng tối Satan, trí
thức Việt đang an nhàn và hạnh phúc trong biện minh đổ lỗi thế gian và
chính mình cho một thực thể Satan – đó là Đảng và nhà nước.
Trong nỗi cuồng xúc về nguy cơ Trung Quốc, con người
dân tộc của trí thức Việt Nam sống lại. Có người cho rằng sự hung hãn
của Trung Quốc ở Biển Đông là cơ may chính trị lớn cho dân tộc Việt hiện
nay. Vì sao? Từ một lịch sử oai hùng, khi con người trí thức dân tộc đó
đã đưa khẩu hiệu độc lập cho Đảng Cộng sản lên đỉnh vinh quang; nay
chính cái máu dân tộc độc lập này đang đe dọa cái hào quang đầy kiêu
hãnh của Đảng. Tự ái dân tộc nay có đến hai kẻ thù. Một là thằng Tàu
hung hăng, thô lỗ mà ta muốn phủ nhận nó cả ngàn năm nay nhưng nó vẫn cứ
như là bóng hình của ta. Thằng kia là cái Đảng tổ bố mà ta đã hy sinh
đời mình dựng nên, nay không biết phải làm gì với thực tế quyền lực này.
Như là một nhà văn kia, một thời là một Việt cộng quá khích, nuôi ước
mơ hiện sinh qua cái thẻ đảng viên, nay thì không biết làm gì với cái
của nợ đó. Xé bỏ, hay trả thẻ đảng lại thì từ chối chính mình từ quá khứ
kiêu hùng; giữ nó tiếp thì mình từ chối nhân cách tập thể trên cơ bản
con người tự do trong suy tư về nhân phẩm, đạo đức và lý tưởng dân chủ.
Nay thì họ còn cho rằng Đảng và nhà nước này đã không còn yêu nước nữa.
Biện chứng Marxist đã hoàn tất cái vế lý tưởng lịch
sử nhân văn khi mỗi con người cộng sản Việt Nam, như là một cá nhân dân
tộc Việt, đang tự chiến đấu lại chính mình trong một cuộc chiến nội tâm
đầy mâu thuẫn và bức xúc. Có thể rằng đây là lúc mà người cộng sản Việt
Nam, vốn là những trí thức dân tộc Việt, đang tìm ra chính mình, hùng hổ
từ chối lý tưởng Mác-Lênin một cách rõ ràng nhất – dù rằng họ chưa bao
giờ thực sự cho mình là người cộng sản hay tin vào lý tưởng đó. Nhưng
nghịch ngẫu thay, đây cũng chính là căn nguyên cho sự thoái trào và tha
hóa của con người tập thể, cộng đồng của trí thức Việt. Họ mang tự ái
dân tộc một cách tiêu cực trong khi chưa định hình nên một linh hồn
chính trực cho mẫu người dân tộc – trong ý thức trách nhiệm dấn thân mới
và toàn diện để thay đổi lịch sử nhằm cứu rỗi và tìm lại căn cước hiện
hữu cho đời mình. Và “thằng Tàu” xâm lược và “thằng cộng sản” độc tài là
hai đối thể tư duy cho một biện minh bất lực và thụ động của chính
mình. Cả hai đối thể rất thực và to lớn đó mà con người dân tộc chỉ có
chấp nhận như là đang sống với thân xác nhiều bệnh hoạn, yếu đuối hay tư
duy đầy hư hỏng của chính ta. Ta phải cứu vớt cuộc đời, vốn bị phí phạm
trong lý tưởng độc lập vừa qua, trong sự hưởng thụ qua phương cách hư
hỏng thân xác vì hai thực thể to lớn kia đã đánh mất niềm tự tin và kỳ
vọng vào con người dân tộc mà ta đã dâng hiến cuộc đời. Chưa bao giờ trí
thức Việt Nam chán ghét chính ta và muốn trả thù lịch sử và quá khứ của
mình bằng cách hưởng thụ thân xác nhiều như hiện nay. Từ vật chất đến
tinh thần, họ chỉ có trách cứ con quỷ Satan khách quan. Còn ta ư! Dại,
khôn, hèn, can đảm đều là những thuộc tính không quan hệ đến ta. Bản ngã
của họ trôi dòng theo biến cố, và nói như Walter Benjamin, và rồi họ
nhìn ra biển, ngó lên trời, chờ một “thiên thần lịch sử” đến để đưa cây
gậy huyền nhiệm lên cao hô “úm ba la” biến đống rác đầy tin tức xấu xa
này thành nên một cú sốc lịch sử cho con phượng hoàng trong rạng đông
của một thời đại mới có thể được tung bay.
Nhưng không! Đang có một số nhỏ, rất nhỏ, trí thức từ
trong lịch sử chính thống của Đảng Cộng sản, và bên ngoài lịch sử đó,
đang đóng vai trò liệt sĩ lịch sử cho năng lực tự do cá nhân, nhằm đem
lịch sử dân tộc ra khỏi gọng kềm chế độ được thiết kế bởi con người dân
tộc Việt vốn đã hiến năng ý chí tự do trên chiếc thuyền độc lập quốc
gia. Giữa hai ý chí tự do – tập thể của Đảng đối với cá nhân của thế hệ
mới – trong giai đoạn này của tình thế, người trí thức đối kháng nắm một
đầu của sợi dây thừng rất căng của lịch sử đang là. Họ chưa đủ mạnh về
cá nhân, về tổ chức, về sức thuyết phục cho quần chúng, nhưng họ có
tương lai đang đi với họ. Một vế của chính trị đối kháng nằm nơi những
con người như “Nhóm Đà Lạt,” hay là “Nhóm Bôxít,” muốn dấn thân vào
chính trị như là, theo Benjamin, “một ý chí cứu rỗi quá khứ bằng cách
nhìn về tương lai” bằng con đường lý thuyết, văn chương, hay là đấu
tranh chính trị xáp lá cà trong từng hoàn cảnh đang có của từng người
cộng sản, hay không cộng sản, mang ý thức trách nhiệm mới. Đối với họ,
“thiên thần lịch sử” sẽ không bao giờ xuất hiện nếu không có một khoảng
không gian ý chí và tâm thức xứng đáng của khối lịch sử mới mà họ dám
dấn thân và hy sinh cho lý tưởng tự do hiện đại. Hay nói theo Lenin,
cuộc cách mạng kế tiếp sẽ đến một cách bất ngờ, theo họ, không phải từ
một phép lạ, mà đến từ sự tràn đầy của những yếu tố và điều kiện chín
mùi chuẩn bị cho sự bất ngờ đó có thể xẩy ra. Lenin gọi nó là một “phép
lạ không lạ” – a non-miraculous miracle – phát xuất từ mảnh vườn đã được
cày bừa và ươm tưới.
Số trí thức dấn thân chính trị đối kháng này, như
những linh hồn từ tương lai về bắt tay với hiện tại – xin ở đây được
phân tích theo kiểu tâm lý học biện chứng – cũng đang thưởng thức chính
mình trong cơn sốt chính trường. Họ có niềm tin, giá trị khả thể tương
lai, cộng đồng thế giới – và nghịch ngẫu thay, với sự tiếp tay từ bộ máy
áp chế của nhà nước. Hạnh phúc là ước mơ và đấu tranh – Hồ Chí Minh đã
nói vậy. Trong khi những trí thức, ví dụ, ở Hoa Kỳ, muốn dấn thân chính
trị, họ phải đi theo quy trình dân chủ, vốn bắt họ phải nói những điều
mỵ dân nhằm vận động xin đủ số tiền cần thiết (gây quỹ) mà ra tranh cử.
Họ có viết gì, phản đối chi, ra báo, lên đài, biểu tình, mang khẩu hiệu,
kiện tụng cơ quan này, chỉ trích, chửi bới lãnh tụ nọ cũng chẳng ai để
ý. Ở Mỹ, hầu hết trí thức chính trị đều trở nên “irrelevant” vì không ai
lắng nghe, không ai thèm để ý. Trái lại, ở Việt Nam, chỉ cần họ lên
tiếng, viết một bài báo, dịch một văn kiện chính trị, tổ chức buổi xuống
đường, là có cả bộ máy nhà nước để ý và biến bạn thành anh hùng dân
chủ. Họ sẽ được thế giới can thiệp, cả cộng đồng bloggers lên tiếng bênh
vực, người Việt hải ngoại ủng hộ, tuyên dương. Người ta nói rằng, “The
worst punishment is being ignored” (Trừng phạt tệ hại nhất là bị không
thèm để ý đến). Trí thức bất đồng chính kiến ở Việt Nam không lo rằng
mình bị bỏ lơ. Dĩ nhiên, không như trí thức Âu Mỹ, họ sẽ bị tù tội, mất
việc. Cái giá phải trả cho cuộc đời cá nhân thì cao. Nhưng đổi lại, từng
cá thể họ trở nên một đơn vị mới của năng thức tiêu chuẩn hoàn vũ và
thời đại. Ở Việt Nam, thời đại nào cũng có anh hùng, tức là số ít của
những cá nhân nổi bật, vì mảnh vườn lịch sử ở đó có quá nhiều phân rác
mục rữa, trong đó có cơ chế chính trị chuyên quyền muốn níu kéo lịch sử
theo gọng kìm quá khứ với một tập thể quần chúng vô minh, ù lỳ và không
có ý thức công dân.
Sự chắc mãn tri thức về câu hỏi “Làm gì?” đối với trí
thức Việt dấn thân, chưa hề là một vấn đề. Không như trí thức Tây Âu
đang loay hoay thoát ra khỏi cơn sầu hòa bình, của đoạn cuối thừa thãi
của lịch sử, the end of history, trong sự nhàm chán và bất lực của dân
chủ đa nguyên với các vấn đề kinh tế và xã hội, người Việt Nam đang có
một câu trả lời chính trị và nhân văn chắc nịch, không nghi ngờ. Đó là
sự vươn thoát của dân tộc ra khỏi hệ thống chính thể toàn trị hiện nay.
Không có gì hạnh phúc bằng lý tưởng quốc gia đã có câu trả lời nằm chờ
sẵn trong tương lai. Đây là bài toán cuối cùng cho dân tộc. Giải được
ván cờ này là ta sẽ đi đến thiên đường khả thể vô tận.
Có phải vậy không? “Hãy cẩn thận với điều mình ước mơ
bởi vì nó có thể thành hiện thực”. Lý tưởng giải phóng và tự do là một
con dao hai lưỡi. Khi dân tộc đã đứng lên giành độc lập ở thế kỷ trước,
cái lưỡi tự do tập thể kia đã quay lại cắt lấy tay mình. Khi Đảng vẫn
còn đó bóp cổ họng ta, và làm hết mọi chuyện, kể cả tư duy và chiến đấu
cho ta, thì vẫn còn có đối thể Satan mà ta chỉ ngón tay trách nhiệm. Một
mai khi Đảng đi rồi thì chỉ còn chính ta là đối nghịch. Ta không còn có
anh hùng, không còn ai là liệt sĩ. Đời còn gì để ước mơ và đấu tranh?
Khi đó, phải chăng thuốc phiện hòa bình và dân chủ sẽ đốt cháy chính tâm
hồn ta? Hãy cẩn thận hơn lần này. Ta không muốn nhấc một tảng đá ra
khỏi vai để rồi thả nó lên chân thêm lần nữa. Trí thức Việt đã sẵn sàng
và xứng đáng là sĩ phu Việt Nam thời đại khi họ vẫn tiếp tục dùng biện
minh áp chế chính trị để trốn tránh lương tâm công dân và buông thả
chính mình? Có phải thời gian bây giờ đây – như một nhạc sĩ ở Sài Gòn
tâm sự – là một đoạn đường quan yếu trên xa lộ rèn luyện tinh thần và
nhân cách cho mỗi con người Việt Nam? Trí thức nào thì chính trị đó.
Lịch sử chỉ có thể “tốt” đến nấc thang tiến hóa tâm thức của dân tộc –
chứ không thể cao hơn.
Có thể nào mà trí thức Việt Nam nguội đi cơn cuồng
xúc với tình thế để sống trong bình tâm và tỉnh thức trên chuyến xe
khách xuyên Việt đầy hiểm nguy và hào hứng đang là? Đảng Cộng sản Việt
Nam và Trung Quốc, có phải là “một ám ảnh lưỡng thể Satan toàn hảo” cho
dân tộc Việt Nam hiện nay?! Có một nhà giáo ở Huế bảo tôi rằng hãy đừng
bi ai trước lịch sử khách quan, vốn chưa phải là của mình, mà hãy quan
ngại về một “lịch sử có thể” do chính trí thức Việt sẽ phải được dựng
nên. Đó mới chính là định mệnh lịch sử dân tộc. Nếu không, tất cả sẽ bị
trôi theo dòng của quy luật tinh thần này: Từ trong bóng tối lưỡng thể,
giữa quá khứ và tương lai, giữa thân xác và thế gian, giữa cái đang là
và sẽ phải là, người trí thức Việt, nếu vẫn đắm chìm trong cuồng xúc tư
duy, nhưng đầy sợ hãi, trong suy nhược thân xác, sẽ phải chết đi để cho
một sinh lực dân tộc thời đại mới được phục sinh.
N.H.L.
Tác giả gửi BVN.Top of Form
Bottom of Form
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét