Boxitvn
Màu “đồng chí”
Xuân Dương
(GDVN) – “Màu đồng chí” không đơn thuần chỉ là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người dân Việt Nam.
Trong thế giới động vật, kỳ nhông được xem là bậc
thầy về biến đổi màu sắc cơ thể. Trong các khoa học mà loài người nghiên
cứu, chỉ có “Lịch sử” là luôn thay đổi màu sắc, chẳng thế mà người ta
hay nói: “trang sử chói lọi của dân tộc” hay “thời kỳ đen tối của lịch
sử” hay “thời hoàng kim của lịch sử”…
Không phải là thực dụng khi người ta nói: “Không có
bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia, dân tộc là vĩnh
viễn”. Một khi chủ quyền quốc gia là tối thượng thì quan hệ bạn bè, đồng
chí phải xếp vào hàng thứ yếu, những sự kiện đang xảy ra trên biển Đông
khiến người ta phải hỏi: “Phải chăng quan hệ đồng chí trong con mắt
giới lãnh đạo Trung Quốc cũng thay đổi màu sắc như kỳ nhông?”
Gần hai ngàn năm trước, sau khi đem binh hùng tướng
mạnh nhà Hán sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã
tịch thu trống đồng của người Việt để đúc lên chiếc cột đồng với lời
tuyên bố láo xược “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng mà đổ thì
Giao Chỉ (Việt Nam cổ) sẽ bị diệt vong).
Các chiến sỹ trên tàu Cảnh sát biển 8001 chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ ở Biển Đông.
Thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm tưởng chừng đã xóa tên nước
Việt khỏi bản đồ thế giới, thế nhưng với bao cuộc khởi nghĩa bị dìm
trong bể máu, với ý chí độc lập không gì ngăn cản được, người Việt và
nước Việt vẫn tồn tại và ngày càng mạnh mẽ. Hàng trăm bộ tộc Việt ở phía
Nam sông Dương Tử, kể cả nước Việt của Việt vương Câu Tiễn rốt cuộc
cũng bị người Hán đồng hóa, chỉ còn lại hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt
lập nên nước Âu Lạc tức Việt Nam ngày nay.
Theo triết lý của đạo Phật: “Trong sắc có không,
trong không có sắc”, dù bị người Hán tìm đủ cách đồng hóa, người Việt
trong đêm dài nô lệ vẫn âm ỉ ngọn lửa hồng của niềm tin vào một ngày đất
nước sạch bóng ngoại bang. Lòng yêu nước, ý chí tự cường là di sản mà
tổ tiên để lại đã thấm vào máu người Việt từ thủa khai sơn, lập quốc.
Khi vua Minh Chu Do Kiểm (tức Sùng Trinh) ngạo mạn ra vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”
(Cột đồng đến giờ rêu vẫn mọc xanh) với phái bộ sứ thần nước Việt thì
Thám hoa Giang Văn Minh, dẫn đầu phái bộ đã kiêu hãnh đáp: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn loang đỏ).
Điểm lại đôi nét lịch sử giữa hai quốc gia Việt Nam –
Trung Quốc để thấy, vấn đề xuyên suốt mấy nghìn năm qua là Trung Quốc
luôn muốn bành trướng xuống phía Nam, luôn muốn Việt Nam trở thành quận
huyện của Trung Quốc, chí ít cũng trở thành chư hầu nghe theo lời chỉ
bảo của Trung Quốc.
Khi chủ nghĩa cộng sản phát triển, người ta có một
niềm tin ngây thơ về thế giới đại đồng, các quốc gia cùng ý thức hệ sẽ
chung một mái nhà, rằng tình đồng chí là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt
chính trị, kinh tế, xã hội… Điều này có vẻ đúng trong nửa đầu thế kỷ
20, khi đó “màu đồng chí” thường là màu đỏ.
Trong cái đỏ nhiệt huyết, đỏ cách mạng, người ta vẫn
thấy cái vằn đỏ trong ánh mắt của “đồng chí” phương Bắc, “màu đồng chí”
không đơn thuần chỉ là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng
vạn người dân Việt ở biên giới Tây Nam do bọn Pôn Pốt gây ra dưới sự
giật dây của “đồng chí”, là máu của hàng vạn chiến sĩ chúng ta đã đổ
trong cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 mà các “đồng chí” khoe là “dạy
cho Việt Nam một bài học”.
Sau năm 1979, màu “đồng chí” lúc vàng lúc xanh, vàng
vì hàng ngày, hàng giờ khắp núi rừng biên giới không lúc nào bình yên,
hết cột mốc bị dịch chuyển, đến tung tiền mua rễ cây, lá cây khiến cây
vàng lá chết lụi. Xanh vì hàng trăm hecta rừng biên giới được thuê làm
gì không biết, xanh vì những lồng bè rình rập trên sóng biển Nha Trang
khi bị phát hiện thì “đồng chí” vội bỏ chạy về nước.
Cho đến hôm nay, màu “đồng chí” không đỏ vàng hay
xanh, nó đã trở thành màu đen, màu của dầu mỏ ngoài biển Đông, màu của
lòng tham, của sự dối trá, thói hợm hĩnh của kẻ giàu và coi thường đạo
lý.
Ông Tập Cận Bình, lãnh đạo Trung Quốc cho rằng “người
Trung quốc không có gen xâm lược”? Quả đúng như vậy, tập hợp toàn bộ
tinh hoa của nhân loại để phân tích bản đồ gen người cũng không tìm được
“gen xâm lược”. Thế mới thấy sự thâm trầm của người mà ta ngộ nhận là
“đồng chí”. Ông Tập Cận Bình không dại gì mà nói rằng Trung Quốc không
hề mang quân đi xâm lược nước khác, nói thế thiên hạ không cười trước
mặt thì cũng cười sau lưng.
Người ta không khỏi thắc mắc Tôn Tử viết binh pháp để
làm gì? Phải chăng binh pháp Tôn Tử chỉ để dành cho người Hoa đánh lẫn
nhau? Những đạo quân Trung Quốc từ đời Hán, Đường đến đời “đồng chí” tấn
công Việt Nam không với mục đích xâm lược thì vì mục đích gì?
Trong số 10 vị nguyên soái khai quốc công thần của
Trung Quốc, chín người đã nhận cái chết một cách buồn thảm chưa kể Chủ
tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Đối đãi với đồng chí trong nước còn như thế thì
người ta còn ngại gì với các “đồng chí” nước ngoài?
Suy cho cùng, sự thị uy, ra oai của các con thú to
với bầy thú nhỏ cũng là điều bình thường trong thế giới động vật. Những
loài nhỏ bé cần có vũ khí tự vệ để không bị tiêu diệt, quan trọng không
phải là sức mạnh, loài gấu to là thế chỉ bị vài con ong bé tẹo đốt là
phải bỏ chạy.
Trong thế kỷ 20, không có bất kỳ dân tộc nào như
người Việt đã phải cầm súng chiến đấu với bốn kẻ địch mạnh nhất thế giới
là Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc. Sự tôi luyện trong chiến tranh khiến
người Việt không biết sợ bọn xâm lược, tuy nhiên sự cảnh giác không bao
giờ thừa. Các nước lớn luôn có những thỏa thuận trên lưng nước nhỏ;
trước kia người ta mong chúng ta cứ đánh nhau với Mỹ càng lâu càng tốt,
ngày nay nhiều nước lại muốn chúng ta đánh nhau với Trung Quốc. Những
lời hứa, những sự mách nước đều xuất phát từ quyền lợi của chính họ, nếu
chiến tranh nổ ra bên thứ ba mới là kẻ hưởng lợi.
Tổng thống Nixon
(phải) bắt tay Chủ tịch TQ Mao Trạch Đông ngày 29/2/1972. Năm 1972 cũng
chính là thời điểm Trung Quốc đã bán đứng Việt Nam cho Mỹ bằng Thông cáo
Thượng Hải ra ngày 27/2/1972, tức là 10 ngày sau khi Tổng thống R.
Nixon rời Mỹ đến Bắc Kinh.Với bản Thông cáo này, Trung Quốc buộc Mỹ chấp
nhận chính sách “một Trung Quốc”, mở đường cho việc đẩy Đài Loan ra
khỏi Liên Hiệp Quốc, để nhường chỗ cho Trung Quốc lục địa. Đổi lại Mỹ
cần Trung Quốc giúp giải quyết chiến tranh Việt Nam. Và Trung Quốc đáp
ứng.
Người Việt cần một trái tim nóng trong cái đầu lạnh,
chỉ cần Biển Đông không yên ổn, dòng hàng hóa bị tắc nghẽn thì nhiều nền
kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng, đó mới là điều mà chúng ta cần quan tâm
để bảo vệ Tổ quốc. Những biểu hiện quá khích không phải là điều kẻ mạnh
theo đuổi.
Chúng ta không nhằm vào những người Trung Quốc làm ăn
trên đất Việt nếu họ là người lao động bình thường, tuân thủ pháp luật
Việt Nam, chúng ta cũng không vơ đũa cả nắm như người nào đó rằng “người
Trung Quốc không có gen xâm lược”. Đa số người dân lao động Trung Quốc
cũng đang bị lừa bịp, bị nhồi sọ bởi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, họ không
đáng bị ghét, đương nhiên bọn do thám, gián điệp, bọn làm ăn phi pháp
thì phải nghiêm trị.
Kinh Dịch của người Trung Quốc coi số chẵn là
số tử, đặc biệt là số 4 ứng với bước tử trong tiến trình “sinh, lão,
bệnh, tử”, vì lẽ đó người ta không làm bậc cầu thang chia hết cho 2 hoặc
cho 4. Quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc từng dựa vào “16 chữ
vàng” và “4 tốt”, xem ra cả hai con số này đều rơi vào bước tử, chúng ta
chẳng trông mong được gì vào cái khẩu hiệu mà người ta vẽ ra nhằm che
mắt kẻ khờ. Nếu cần phải chọn, hãy chọn số 9, đó là nơi thượng đế ngự
trị (9 tầng mây) đó chính là 9 từ trong lời dạy của Cụ Hồ: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”.
Đã đến lúc, chúng ta nên tự hỏi sau màu đen, màu
“đồng chí” sẽ là màu gì? Hãy sòng phẳng với họ và cũng sòng phẳng với
dân để tránh ảo tưởng về một người bạn đang thủ dao găm trong túi.
Nếu phải đối đầu trong cuộc chiến, người Việt sẽ không rút gươm trước kẻ thù nhưng sẽ là người tra gươm vào vỏ sau cùng./.
X.D.
Nguồn: giaoduc.net.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét