Boxitvn
Phượng Hoàng, Đài SBS, Australia, phỏng vấn tiến sĩ, nhà báo Phạm Chí Dũng
Chủ nhật tuần qua biến cố biểu tình lan
rộng khắp nước chống Trung Quốc đưa giàn khoan vào trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã được dư luận quốc tế chú ý
loan tin rộng rãi. Nhưng trên trạng mạng của báo
chí lề trái, người ta thấy rõ bàn tay của nhà cầm quyền tổ
chức một cuộc biểu tình “quốc doanh”, chủ ý định phỗng tay trên
cướp đoạt cuộc biểu tình của người dân yêu nước để lèo lái
theo ý muốn của đảng cầm quyền, nhưng bị thất bại vì bị vạch
mặt.
Thế rồi sang ngày thứ Ba, một làn sóng biểu tình khác đã bùng nổ
tại 22 tỉnh thành. Đặc điểm là các cuộc biểu tình này bạo
động, diễn ra ở các công ty của người ngoại quốc, đa số là
của Trung Quốc. Nhiều hãng xưởng đã bị đập phá, phóng hỏa, và bị một số người hôi của. Ngay ngày hôm ấy, công nhân tại các nơi này đã xác nhận những kẻ đến hô hào bạo động không phải là công nhân của nhà máy. Hàng trăm người bị bắt.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xác nhận vừa “bình ổn được tình hình ở phía Nam”, thì ở khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh đã xảy ra xô xát chết người.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh tại Việt Nam đã đi đến từng nhà máy trong khu công nghiệp Biên Hòa, Bình Dương và ghi nhận: nhóm biểu tình bạo động này rất hung hăng, đi từ nơi này sang nơi khác, trang bị gậy sắt, máy bộ đàm, có tổ chức chặt chẽ, dụ dỗ người đi biểu tình sẽ được trả tiền. Nhóm người này có cung cách hành xử rất côn đồ, đập phá có chủ đích và rất chuyên nghiệp.
Đặc biệt, tại tất cả những nơi bị đám người này tấn công, người ta thấy vắng bóng công an, cảnh sát; công ty bị phóng hỏa, công nhân gọi lực lượng cứu hỏa nhưng bị cúp máy. Tất cả cho thấy một sự “thả lỏng” kỳ lạ của nhà cầm quyền.
Trong khi đó, lời kêu gọi của thành phần thanh niên yêu nước - kêu gọi biểu tình ôn hòa, không bạo động, không cướp phá – bị lạc lõng trong cơn hỗn loạn.
Ai giật dây những kẻ gây ra bạo loạn? Phải chăng mục đích của họ là phá hoại phong trào chống hành động xâm lăng của Trung Quốc và phá hoại luôn cả kinh tế Việt Nam?
Như vậy phải chăng hiện nay có đến 3 thành phần, 3 khuynh hướng biểu tình tại Việt Nam? Chúng tôi đã đặt câu hỏi đó với tiến sĩ kinh tế – nhà báo tự do Phạm Chí Dũng tại Sài Gòn. Ông trả lời:
Phạm Chí Dũng: Phóng sự hai phần của nhạc sĩ
Tuấn Khanh rất giá trị trong bối cảnh hiện thời, tại thời điểm hiện thời
và trong những điều kiện gọi là tình hình hỗn mang ở Việt Nam, bởi vì
phóng sự đó nêu ra những câu hỏi, những tín hiệu không thể không làm cho
dư luận phải nghi ngờ về vai trò của công an và sự biến mất của công an
trong những ngày diễn ra những cuộc biểu tình bạo động ở Bình Dương,
Đồng Nai và kể cả Hà Tĩnh. Riêng Hà Tĩnh thì đã có chết người và đó là
một hậu quả rất trầm trọng.
Bài phóng sự đó tôi cho là mô tả tổng quát và đã đặt
ra những câu hỏi – không chỉ là câu hỏi mà có thể dẫn tới kết luận nữa.
Ngày hôm nay báo chí Nhà nước xác nhận là tất cả những kẻ bị bắt, những
kẻ côn đồ đập phá tại Bình Dương, Đồng Nai không phải là công nhân. Rõ
ràng như vậy. Mà không phải là công nhân thì là ai? Được giật dây bởi
ai? Ai đứng đằng sau những kẻ côn đồ như vậy? Làm sao xuất hiện một nhóm
côn đồ như vậy và có thể xách động cả một cuộc biểu tình đi đập phá
thay vì biểu tình ôn hòa và biểu tình có văn hóa?
Chúng ta nhìn lại tổng quát thì thấy thế này: trong
thời gian vừa qua thì có bốn luồng biểu tình – bốn khuynh hướng biểu
tình. Khuynh hướng lớn nhất chính là nhân dân mà tôi cho là phát xuất từ
tình cảm dân tộc. Người ta muốn phản kháng sự can thiệp của Trung Quốc
tại lãnh hải của Việt Nam ở Biển Đông. Khuynh hướng thứ hai là biểu tình
quốc doanh, hoặc là “biểu tình cuội”, hoặc dùng một từ chuyên môn hơn
của Nhà nước, gọi là “phản biểu tình” hoặc “chống biểu tình”. Đó là cái
phương án đã được tập dượt từ lâu và đưa cả vào phương án B2 là phòng
chống bạo loạn biểu tình. Khuynh hướng thứ ba là khuynh hướng biểu tình
hơi có tính chất “cải lương” của một số trí thức nhân sĩ mang khuynh
hướng phản biện trung thành với Nhà nước. Khuynh hướng này trong thời
gian vừa rồi đã nhận được sự hồi đáp gần như là sự lăng mạ từ phía chính
quyền, không gần gũi hơn được với chính quyền và có thể nói thẳng đó là
một sự thất bại.
Và khuynh hướng thứ tư đặc biệt nghiêm trọng mà chúng
ta vừa đề cập tới, là khuynh hướng biểu tình bạo động và có thể dẫn tới
bạo loạn. Đó là những phần tử quá khích hôi của và mượn hơi cuộc biểu
tình để thực hiện những động cơ riêng của họ.
Tại sao lại có những người đi biểu tình cầm theo cả
máy bộ đàm? Tại sao trong những ngày biểu tình, toàn bộ lực lượng cảnh
sát giao thông – vốn trước đó tràn ngập và bị coi là “hung thần” ở tỉnh
Bình Dương và Đồng Nai – lại biến mất? Kể cả cảnh sát cơ động cũng không
thấy tăm hơi đâu! Quân đội thì hoàn toàn không thấy! Và tại sao những
kẻ côn đồ biểu tình đập phá tới nay lại được xác nhận không phải là công
nhân? Như vậy là một nhóm nhỏ hay là một nhóm lớn? Và những luồng thông
tin đặt ra là liệu có bàn tay của tình báo Hoa Nam, Trung Quốc, trong
những cuộc biểu tình bạo động như vậy hay không? Và đặc biệt nghiêm
trọng là chúng ta thấy là ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, là nơi có ít nhất 7.000
công nhân Trung quốc làm việc, nơi có giá trị đến hàng tỉ đô la Trung
Quốc đầu tư vào và đã gây dậy sóng dư luận trong báo chí Việt Nam trong
thời gian vừa qua về việc Trung Quốc tọa ngự ngay trên mặt đất Việt Nam
và đó là kế sách định cư lâu dài của người Trung Quốc ở Việt Nam, thì đã
xảy ra những cái chết . Và những cái chết đó không phải là số ít. Theo
tin Reuters, có ít nhất 20 người. Tôi còn nghe những thông tin có thể
con số cao hơn. Và tình hình rất nghiêm trọng ở đó. Chính ông Bộ trưởng
Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã phải xác nhận là tình hình rất
nghiêm trọng và ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam.
Như vậy tất cả nhưng hiện tượng biểu tình trong thời
gian vừa qua xứng đáng để tất cả chúng ta, những người quan sát đau đáu
với hiện tình đất nước Việt Nam trước giàn khoan HD 981 của Trung Quốc
ngự trị trong lãnh hải Việt Nam, đặt ra những câu hỏi hết sức bức xúc
rằng: với tất cả những hiện tượng nhốn nháo như hiện nay thì mọi chuyện
sẽ dẫn tới đâu?
SBS : Mọi chuyện sẽ dẫn tới đâu anh ? Dù là phe nào đi nữa thì vấn đề đặt ra là: ai chịu trách nhiệm? Nhà Nước Việt Nam
nói chung vẫn là người phải đứng ra gánh trách nhiệm chứ đâu có đổ cho
nhóm nào, côn đồ hay ai được? Người chịu trách nhiệm tối hậu là Nhà
Nước, phải không ạ?
Phạm Chí Dũng: Tất nhiên là Nhà Nước phải chịu
trách nhiệm. Chỉ có điều đó là trách nhiệm cuối cùng, chứ không phải là
trách nhiệm đầu tiên. Bởi vì đầu tiên phải thể hiện vào lúc mà hậu quả
bắt đầu sinh ra. Nhưng mà khi hậu quả bắt đầu sinh ra thì không thấy
bóng dáng chính quyền, Nhà nước, công an ở đâu cả! Và chỉ khi mọi thứ đã
tan hoang, khoảng vài chục – có con số lên tới gần một trăm doanh
nghiệp đã bị đập phá, trong đó có doanh nghiệp của Trung Quốc, Đài Loan
và kể cả của Singapore nữa- lúc đó công an mới vào cuộc, mới bắt người.
Lúc đó mọi chuyện đã quá muộn rồi! Cuối cùng vẫn là trách nhiệm của Nhà
nước. Tôi đồng ý với quan niệm này.
SBS: Và khi mình nói đến trách nhiệm, có vấn đề bồi thường? Có bồi thường không? Ai sẽ bồi thường đây?
Phạm Chí Dũng: Trung Quốc đang nêu vấn đề bồi thường
với Việt Nam. Nhà nước Trung Quốc sau vụ biểu tình ở Vũng Áng, Bình
Dương, Đồng Nai và sau những hậu quả trầm trọng như vừa qua thì bắt đầu
lên tiếng: “Việt Nam phải có trách nhiệm để xử lý nghiêm những kẻ gây
rối, những kẻ côn đồ và phải bồi thường cho các doanh nghiệp”.
Tôi không biết thực ra vấn đề bồi thường này Trung
quốc dựa trên điều luật quốc tế nào, bởi vì ngay những quy tắc ứng xử ở
Biển Đông (DOC) và các quy ước quốc tế (UNCLOS) Trung Quốc đã không tuân
thủ nghiêm túc thì làm sao Trung Quốc có thể đòi Nhà nước Việt Nam bồi
thường về vấn đề này? Và trước khi nói tới vấn đề bồi thường thì Trung
Quốc sẽ trả lời Việt nam thế nào nếu như Nhà nước Việt Nam làm được như
là Nhà nước Philippines, có nghĩa là đệ đơn kiện Trung Quốc xâm phạm
lãnh hải Việt Nam ra tòa án quốc tế? Đó là một vấn đề.
Vấn đề thứ hai là việc bồi thường cho các doanh
nghiệp Trung Quốc, nếu chỉ xét ở nội tình Việt Nam, tôi cho là Nhà nước
Việt Nam có trách nhiệm phải bồi thường, trong đó có trách nhiệm đã
không quản lý trị an thực sự đúng pháp luật và để xảy ra những sự việc
như vậy – nhưng mà không phải do yêu cầu của Trung Quốc mà Nhà nước Việt
Nam tự thân phải có trách nhiệm về vấn đề đó.
Bây giờ có một vấn đề đặt ra là : chưa thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào nêu ra một sự thiệt hại tính bằng giá trị nào…
SBS: Họ chưa có thì giờ, họ chưa kịp thôi!
Phạm Chí Dũng : Có lẽ có tâm lý như thế này
nữa: là họ đang ngán ngại, đang sợ hãi vì cái làn sóng chống Trung Quốc ở
Việt Nam, và họ sợ là khi họ công bố những con số như vậy lại càng đổ
dầu vào lửa và làm cho sự phẫn uất của người Việt Nam đối với Trung Quốc
tăng cao hơn nên họ chưa công bố, chứ tôi nghĩ là họ đã có con số thống
kê, có ước tính sơ bộ về thiệt hại như thế nào rồi.
SBS : Nhưng không phải chỉ riêng các công ty Trung Quốc
họ đang sợ hãi mà chạy sang các nước khác, lo bỏ của chạy lấy người. Có
cả những công ty của Singapore, của Đài Loan, họ cũng giơ hai tay lên,
họ nói: chúng tôi không có dính líu gì tới Trung Quốc hết, chúng tôi ủng hộ Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam v.v.. Nói chung là bầu không khí đầu tư làm ăn ở Việt Nam đang sụp đổ. Làm thế nào để gây lại lòng tin tưởng nơi giới đầu tư bây giờ anh?
Phạm Chí Dũng: Nhà nước Việt Nam phải đứng ra
xin lỗi giới đầu tư nước ngoài, chính thức phải có trách nhiệm bồi
thường một phần cho giới đầu tư nước ngoài. Không thể khác hơn được.
Chính Nhà nước Việt Nam và ngân sách Việt Nam phải đứng ra làm chuyện
đó. Chỉ có điều ngân sách Nhà nước Việt Nam cũng lấy từ tiền thuế của
dân thôi, mà tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay cực kỳ khó khăn. Tôi
không biết Nhà nước Việt Nam sẽ lấy tiền ở đâu ra. Nhưng chắc chắn sẽ
phải xin lỗi người ta, tại vì vụ vừa qua không chỉ ảnh hưởng tới kinh tế
đối với nước ngoài, mà những cuộc biểu tình bạo động bạo loạn làm tôi
nhớ tới tình hình Indonesia cách nay 15, 16 năm và tới tình hình Ukraine
như thời gian vừa qua. Và nó thực sự là nỗi nhục quốc thể đối với Việt
Nam, tại vì nó đẩy nền văn hóa biểu tình, nền văn hóa biểu thị của dân
chúng xuống tới tận cùng. Người ta nhìn vào cái hiện tượng này, quy về
cái bản chất của nó. Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng thì sẽ thấy là biểu
tình chỉ là để đập phá và giết người. Và như thế là tận cùng của văn hóa
biểu thị và hoàn toàn không phù hợp chút nào với các công ước, quy ước
quốc tế trong Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc mà Nhà nước Việt Nam đã
tham gia.
SBS: Có ý kiến cho rằng biểu tình và bày tỏ sự phẫn nộ như vậy không phải từ nguyên nhân duy nhất là chống Trung Quốc, có phải vậy không ạ?
Phạm Chí Dũng: Hoàn toàn đúng. Tôi là người
Việt Nam, tôi hoàn toàn sống trong bầu không khí phẫn nộ và kích nổ ở
Việt Nam nên tôi hiểu vấn đề. Và tôi cũng nghe rất nhiều dư luận về thực
trạng xã hội Việt Nam trong những năm vừa qua; đặc biệt là từ năm 2013
tới giờ xảy ra quá nhiều chuyện. Và giới công nhân là giới bị áp bức
nhiều nhất, áp bức về chế độ lương, về chế độ lao động, về chế độ an
sinh xã hội, về mối quan hệ chủ thợ. Họ luôn luôn sống trong cảnh nơm
nớp bị đuổi việc.
Từ năm 2011 đến nay, mặt bằng giá cả, chỉ số lạm phát
thực tế ở Việt Nam đã tăng từ 2,5 đến 3 lần. Trong khi đó, mặt bằng
lương cuả công nhân ở các khu chế xuất công nghiệp giảm từ 25 đến 30%.
Như vậy thì giá cả tăng, mà lương lại giảm thì làm sao công nhân có thể
tồn tại được ? Mà mức lương đó vốn trước đây đã được coi là khó sống.
Trả lương như vậy mà kéo dài thời gian làm việc; thậm chí đi toilet
cũng phải xin phép, phải làm đơn, như vậy thì làm sao công nhân có thể
chịu đựng được? Mà lại có hiện tượng những công ty Trung Quốc và Đài
Loan là những công ty đối xử với công nhân Việt Nam thiếu văn hóa, tàn
tệ nhất. Chính điều đó đã gây ra một mối xung khắc tích tụ lâu năm giữa
công nhân Việt Nam với chủ nhân Trung Quốc và Đài Loan. Cho nên không
ngạc nhiên là trong làn sóng bạo động vừa qua, các doanh nghiệp bị nhắm
tới là Trung Quốc và Đài Loan chứ không phải là ai khác.
Vấn đề giàn khoan HD 981 chỉ là phát pháo lệnh, một
đốm lửa để bùng cháy lên, lan ra cả một vùng lửa lớn; trong đó có nhiều
nguyên nhân. Nguyên nhân chính là bức xúc và phẫn uất xã hội dẫn tới
phản kháng xã hội; chưa kể là sự phản kháng của công nhân đối với các
chính sách của Nhà nước và các vấn đề khác của xã hội. Họ nhân vụ này để
ra đường gào, thét, la và làm mọi thứ để có thể giải tỏa nỗi bức xúc đã
bị kìm nén lâu ngày. Đó là nguyên nhân chính. Còn về vấn đề Trung Quốc,
tôi cho là họ có tinh thần dân tộc, nhưng nó không là nguyên nhân quyết
định trong vụ việc để kéo cả một đám đông trong suốt mấy ngày đi từ
tỉnh này sang tỉnh kia, thậm chí là diễn ra hành động đập phá như vừa
qua. Đó là một hiện tượng rất đáng lý giải về góc độ xã hội học và tâm
lý học.
SBS: Trong khi tình hình diễn ra như vậy thì anh nghĩ gì khi Hội nghị Trung ương
đảng né tránh chuyện Biển Đông, lo đi bàn về văn hóa? Bên trong thì như
vậy, còn bên ngoài thì Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng xin gặp Tập
Cận Bình nhưng bị từ chối ?
Phạm Chí Dũng: Đó cũng là một sự thất vọng
kép! Hai sự thất vọng đến cùng một lúc! Hội nghị Trung ương hoàn toàn
không đề cập đến vấn đề Trung Quốc. Chỉ bài diễn văn cuối cùng mới đề
cập đến vấn đề biển Đông. Dùng từ “biển Đông” nhưng không có một từ
“Trung Quốc” nào cả! Có lẽ không cần giải thích quý vị cũng hiểu tại sao
như vậy. Tại vì tất cả đều dẫn dắt từ một chu trình khép kín thôi –
nhân nào thì quả đó. Và chính sách Việt Nam là hữu nghị thắm thiết, tình
bạn môi hở răng lạnh với Trung Quốc đã phải trả giá như thế nào. Và hầu
hết cho tới nay thì dường như giới chính khách đều ngậm bồ hòn. Họ
không thể nói hơn được nữa. Đó là một chuyện.
Câu chuyện thứ hai chị vừa đề cập là chuyện tờ The
New York Times, tờ báo uy tín lớn nhất của Hoa Kỳ đã tiết lộ tin này,
chứ không phải báo chí trong nước. Việc ông Nguyễn Phú Trọng đã bị từ
chối thẳng thừng bởi văn phòng của ông Tập Cận Bình là vì ông Nguyễn Phú
Trọng đề cập chuyện có thể qua Bắc Kinh để bàn những biện pháp “giải
tỏa”. Thực sự đó là một lời cầu xin. Nhưng ngay cả lời cầu xin đó cũng
bị thẳng thừng từ chối. Tôi cho đó là một nỗi nhục tiếp theo nỗi nhục
một nước nhỏ quá quỵ lụy nước lớn đến không thể chấp nhận được!
Tình hình đó cho thấy là tình hình ở biển Đông bế
tắc, bế tắc tới mức mà nay người ta cho rằng Việt Nam không còn lựa chọn
nào khác. Chỉ là một trong hai, chứ không còn là cả hai. Không còn là
lúc so đo tính toán, đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ nữa, mà chỉ có thể
là lựa chọn một trong hai: hoặc là Trung Quốc, hoặc là Hoa Kỳ. Cho nên
tín hiệu mà Tư lệnh hạm đội 7 Hoa Kỳ bắn tin trên Reuters về việc hợp
tác quân sự Biển Đông giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong vài ngày qua, đó là
tín hiệu tôi cho là nếu Việt Nam mà bỏ qua cơ hội này thì sẽ khó còn cơ
hội nào khác.
SBS: Thưa, báo chí trong nước loan
những tin như là “quốc tế phẫn nộ”, như là “dư luận các nước, các chính
khách, các học giả lên án Trung Quốc”… nhưng mà trong
những ngày đầu, Mỹ còn nhẩn nha nói là Mỹ “đang nghiên cứu”. Còn về phía
Nga là nước đã bán tàu ngầm cho Việt Nam, thì Nga bận tập trận với Tàu.
Có ý kiến là mình chớ có tin Mỹ, tin Nga mà có ngày bán thóc giống mà
ăn. Thế thì, cái lựa chọn nào còn lại cho Việt Nam? Liệu bây giờ nhà cầm
quyền Hà nội có nghĩ tới chuyện kiện Trung quốc ra tòa án quốc tế như
Phi Luật Tân hay không? Hay là chuyện đó bây giờ trễ quá rồi?
Phạm Chí Dũng: Tôi cho rằng người Nga họ đang
bận với việc trưng cầu dân ý ở Crimea và bận đối phó với những luồng
thông tin bất lợi cho họ về vụ Crimea. Người Pháp – tôi nghĩ là họ quan
tâm tới vấn đề văn hóa được đặt ra trong hội nghị Trung ương 9 của đảng
Cộng sản Việt Nam hơn là chuyện ở biển Đông. Còn người Mỹ, thì có vài
thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lên tiếng, không phải là đại diện cho Quốc
Hội Mỹ, càng không phải là đại diện cho chính phủ Mỹ! Càng không có một
tiếng nói nào của Tổng thống Mỹ.
Tôi cho là, hơn ai hết, người Mỹ họ hiểu Việt Nam. Họ
đang đóng vai trò một người đứng trên núi nhìn xuống, nhìn hai con cá
quẫy dưới biển và xem con cá nào thắng. Họ không bao giờ dại gì mà lao
vào một cuộc chiến ở biển Đông mà trong đó cái phần thất thiệt sẽ ảnh
hưởng đến lực lượng và uy tín của họ.
Báo chí Việt Nam, theo lối thông tin một chiều từ
trước tới giờ – tất nhiên phải nói là “những tiếng nói phẫn nộ trên
trường quốc tế”. Nhưng mà những tiếng nói nào, trong khi không hề có một
tiếng nói chính thức nào trên một diễn đàn chính thức nào ủng hộ Việt
Nam? Chỉ có một số người, trong đó cộng đồng người Việt là chủ yếu, chứ
còn trong giới học giả thì rất ít.
Đồng minh lớn nhất của Việt Nam hiện nay, đối tác
chiến lược toàn diện, chính là Trung Quốc. Nhưng mà tình bạn môi hở răng
lạnh như vậy đã đối xử với Việt Nam như vậy, thì thử hỏi những người
bạn khác đối xử với Việt Nam như thế nào? Thực tế Việt Nam không còn một
đồng minh nào khác. Nhà nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn cô đơn trên
trường quốc tế.
SBS: Câu hỏi đặt ra là bây giờ liệu Việt Nam có nên cùng với Phi Luật Tân đứng ra kiện Trung quốc nhân chuyện giàn khoan này, hay la chuyện đó quá trễ rồi?
Phạm Chí Dũng: Tôi cho là chuyện đó có thể để
sau. Không nhất thiết phải làm trong thời điểm này. Việt Nam vẫn còn
mười năm nữa để đòi lại Trường Sa và vẫn còn thời gian khá dài để làm rõ
cái đường lưỡi bò là như thế nào.
Nhưng việc nên làm trước mắt là bài học của người
Philippines đã đạt được trong chuyến công du của Tổng thống Hoa kỳ
Barack Obama tại Philippines. Đó là giữa Philippines và Hoa Kỳ đã có
được một hiệp ước về quốc phòng.
Hiệp ước tương trợ về quốc phòng đó rất giá trị, có
nghĩa là bảo đảm lãnh hải của Philippines khó bị Trung Quốc xâm lấn. Cho
nên vừa rồi, bất chấp những lời tuyên bố hung hăng hiếu chiến của Trung
Quốc, phía Trung Quốc đã không dám làm một cái gì trong hành động chiếm
bất kỳ một đảo nhỏ nào của Philippines. Philippines đầy chủ quyền, đầy
tự tin để có thể bắt bất cứ tàu cá nào của Trung quốc xâm nhập lãnh hải
của Philippines.
Đó, vấn đề là như vậy. Cho nên khi Hoa Kỳ đã chìa tay
ra từ tháng Tư năm 2013, đã có những hợp tác giao lưu quân sự với Đà
Nẵng của Việt Nam thì đúng ra Việt Nam phải bắt được tín hiệu đó; nhưng
mà rất tiếc đã không làm được gì từ đó đến nay và không có nổi một cái
điều gọi là “chiến lược lá chắn” của Hoa Kỳ ở biển Đông của Việt Nam.
Như vậy thì hậu quả Việt Nam phải trả giá đến ngày hôm nay là điều chắc
chắn.
Điều đầu tiên, nhu cầu đầu tiên Việt Nam phải làm là
phải có ngay được một hiệp ước tương trợ quốc phòng với Hoa Kỳ, và chính
hạm đội 7 sẽ đóng vai trò đó. Khi hạm đội 7 xuất hiện ở biển Đông thì
tôi cho rằng không chỉ giàn khoan HD 981, mà kể cả hàng trăm tàu chiến
và hải cảnh của Trung Quốc đang quần thảo ở vùng lãnh hải này sẽ phải
rút đi. Và mối họa trước mắt cũng như trong trung hạn của Trung Quốc đối
với Việt Nam sẽ bị giảm thiểu.
SBS: Dạ vâng. Cảm ơn anh Phạm Chí Dũng.
TS Phạm Chí Dũng gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét