Một tàu cảnh sát biển Trung Quốc (trái) gần giàn khoan dầu của Trung
Quốc trong vùng biển tranh chấp với VN ở Biển Đông hôm 14 tháng 5 năm
2014.
AFP PHOTO / HOANG DINH NAM
Theo dõi các sự kiện hơn một tháng qua, kể từ khi Trung Quốc đưa giàn
khoan vào vùng biển Việt Nam, người ta thấy ở đó có đủ sắc thái bi
hùng, kiêu hãnh, bạc nhược, hèn hạ và hài hước… Có những điều người ta
ngờ ngợ từ lâu, nay bạch hóa trước ánh sáng, có những điều người ta lấp
lửng từ lâu, nay huỵch toẹt trước thiên hạ, có những điều người ta lên
án, bàn luận âm thầm từ lâu, nay người ta kết luận công khai.
Tất cả cho thấy nhiều điều mà câu hò xứ Nghệ xa xưa đã nói: “Rằng qua cơn hoạn nạn, mới hiểu tận lòng nhau”.
Cơn hoạn nạn
Đất nước Việt Nam đang trải qua một cơn hoạn nạn khốc liệt.
Cơn hoạn nạn bắt nguồn từ một nền chính trị độc đảng, độc trị độc tài
vẫn tồn tại trên đất nước này đã quá lâu, gây bao nhiêu hệ lụy và đã tự
chứng tỏ mình không đủ khả năng đưa đất nước đi lên theo chiều tiến bộ
mà thậm chí ngược lại. Dù vẫn luôn tự vỗ ngực xưng xưng là đỉnh cao trí
tuệ nhân loại là đội quân tiên phong nhưng họ đang đi vào một cuộc khủng
hoảng chính trị toàn diện. Ở đó, họ chứng tỏ sự khủng hoảng lớn về tư
tưởng, lý luận và nhân sự.
Gần một trăm năm ru ngủ dân tộc này đi theo “con đường ánh sáng của
đảng” về Thiên đường Chủ nghĩa xã hội. Với cái lý thuyết huyễn hoặc rằng
là Chủ nghĩa xã hội sẽ thắng CHTB ở năng suất lao động, rằng là CHTB là
đêm trước của Chủ nghĩa xã hội, rằng là Chủ nghĩa xã hội là khoa học
của mọi khoa học và ở đó không có người bóc lột người… rồi hô hào nào là
“Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội, hoặc “Đi
tắt, đón đầu” v.v… Để rồi cuối cùng muốn về số 0 lại phải một quá trình
dài sau đó. Nay thì các đời Tổng Bí thư nói huỵch toẹt là cái Chủ nghĩa
xã hội mà luôn được vẽ ra một cách công phu, tốn kém và ảo tưởng đẹp đẽ
kia ấy, nó chưa rõ ràng là đầu cua tai nheo nó ra sao, mà “sẽ dần dần
sáng rõ” (Nông Đức Mạnh) hoặc “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ
nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” (Nguyễn Phú Trọng). Thế
nhưng, họ vẫn quyết không từ bỏ việc đưa cả dân tộc này làm vật thí
nghiệm, một loại thí nghiệm mà cả loài người đã vứt bỏ ¼ thế kỷ nay bởi
chắc chắn sẽ thất bại.
Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN khóa 11, diễn ra tại Hà Nội ngày 1 tháng 10 năm 2012. AFP PHOTO.
Không chỉ khủng hoảng về tư tưởng, lý luận, đảng CS hôm nay khủng
hoảng nặng nề về nhân sự. Đã 2/3 thế kỷ đảng xây dựng “con người mới
XHCN”, lớp người hôm nay lãnh đạo đất nước, đều là lớp người đã ưỡn ngực
tự hào là “thế hệ Hồ Chí Minh, là con cháu bác Hồ”. Thế nhưng, tham
nhũng từ những con sâu, nay là một bầy sâu, tha hóa từ là hiện tượng cá
biệt, đã trở thành hiện tượng bình thường và thậm chí là phổ biến với
“một bộ phận không nhỏ” dù đảng không muốn nói thẳng ra là phần lớn. Vì
thế, ngay cả chân Thủ tướng lãnh đạo chính phủ với nhiều những sai lầm,
bao hậu quả, cuối cùng khi bị đặt vấn đề từ chức đã chỉ thẳng vào mặt
Đảng mà rằng: “Tôi không biết, đảng bảo làm thì tôi làm”. Hết chỗ nói.
Cơn khủng hoảng chính trị đã đẩy sự tín nhiệm của người dân vào lực lượng tự xưng này đến cuối đường hầm.
Và khi sự tín nhiệm của người dân xuống thấp nhất, thì ngón đòn bạo
lực được sử dụng để thể hiện bản chất cái gọi là “chuyên chính vô sản”
rõ nét nhất. Bạo lực xảy ra tràn lan trong xã hội, nhiều nơi côn đồ kết
hợp công quyền để đàn áp người dân. Một xã hội luôn được tự ca ngợi ổn
định, hòa bình, hạnh phúc đến tận… thứ 2 thế giới, nhưng người dân luôn
khủng hoảng lòng tin vào mọi mặt cuộc sống.
Bắt nguồn từ tư duy lãnh đạo, một nền kinh tế Việt Nam què quặt, phụ
thuộc và lâm vào miệng hố của sự mất ổn định. Nguồn gốc sâu xa từ một
thể chế chính trị độc tài cộng sản đã dẫn nền kinh tế theo đường lối
“kinh tế Thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa” chẳng giống ai. Ở nền
kinh tế XHCN đó, không những đã không “tạo ra năng suất lao động cao hơn
hẳn” như họ thường dạy dỗ rêu rao trong cái bộ môn Kinh tế Chính trị
Mác – Lenin. Ngược lại, lực lượng lao động được sử dụng chỉ 30% tổng số
nhân lực bộ máy, phần còn lại 70% ăn bám, đó chính là sản phẩm của chế
độ kinh tế thị trường XHCN đã đưa lại hậu quả khủng khiếp cho nền kinh
tế mà không một nguồn lực nào cáng đáng nổi.
Cơn hoạn nạn cũng bắt nguồn từ nạn thâm thủng ngân sách do tham
nhũng, phá hoại và đặc biệt là những dự án bởi “Chính sách lớn của đảng”
đã để lại những hậu quả khủng khiếp không chỉ cho kinh tế, môi trường,
an ninh quốc phòng mà trực tiếp tác động đến đời sống người dân. Đến mức
Việt Nam đã phải đào khoáng sản thô bán vẫn lỗ mà vẫn cứ bán.
Ở các nước xung quanh, những sự kỳ thị người Việt diễn ra ngày càng
nhiều. Người Việt thuộc thế hệ Hồ Chí Minh ở nước ngoài đã thi nhau “lập
thành tích” trong các vụ vi phạm pháp luật nước sở tại và tạo nên những
hình ảnh đáng xấu hổ trong con mắt bạn bè, trong các vụ việc làm ăn,
đầu tư và cuộc sống với nạn trộm cắp, đĩ điếm, thiếu văn minh, lịch sự
tối thiểu.
Trên thế giới, trước con mắt anh em, bạn bè, vị thế của Việt Nam dần
dần tụt xuống hàng cuối về các chỉ tiêu tự do, nhân quyền. Hàng năm, thế
giới phải nhắc nhở nhà nước VN cần tôn trọng các quyền cơ bản của con
người của chính người dân đất nước mình. Công dân Việt Nam được sử dụng
như những con tin cho chính nhà nước đổi lấy các hoạt động làm ăn, hội
nhập.
Và trong cuộc khủng hoảng không lối thoát đó của những người cộng
sản, thì đất nước lâm vào một cơn hoạn nạn mới: Nạn xâm lăng từ Phương
Bắc.
Kết quả là khi Việt Nam lâm nạn, ngoảnh đi, ngoảnh lại trước sau thì
nhà nước Việt Nam không có một bạn bè, đất nước cô đơn giữa những nguy
biến.
Đảng “quang vinh” – nguy vận nước
Ông Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông (ảnh tư liệu không rõ năm chụp)
Nạn xâm lấn, và bành trướng của ngoại bang phương Bắc có từ ngàn đời
nay, nó cũng như bão, như lũ lụt, như nắng hạn mưa rào, nghĩa là cứ đến
mùa lại đến. Cái tâm địa bành trướng của người Phương Bắc cha ông ta đã
nói lại cho con cháu rõ xưa nay, mỗi người dân Việt đã ngấm vào máu vào
thịt, rằng nó cũng như dịch bệnh, cứ sơ hở là nó cắn. Cũng chính vì thế
mà dòng máu trung dũng chống xâm lăng từ phương Bắc đã được lưu truyền
và luôn chảy trong huyết quản người Việt xưa nay, chưa bao giờ nguội
tắt.
Điều tệ hại nhất, là “đảng lãnh đạo” đã xác định kẻ thù của đất nước,
dân tộc này là bạn “16 chữ vàng và 4 tốt” của mình. Đây chính là nguyên
nhân chính đã tạo nên cơn đại hoạn nạn của đất nước hôm nay. Chính thái
độ, cách hành động của nhà cầm quyền Việt Nam thời gian qua đã thể hiện
một điều: Trong giai đoạn này, những bi đát, gian nan của vận nước càng
tăng lên gấp bội.
Không chỉ hôm nay, mà giai đoạn gần đây, những hành động của đảng
Cộng sản và nhà nước CSVN đối với Trung Quốc chỉ thể hiện thành công một
điều: Sự lệ thuộc, khiếp nhược đến hèn hạ. Mọi hành động, giao tiếp
giữa hai quốc gia độc lập đã bị biến dạng đến thảm hại. Trong khi bọn
bành trướng ngày càng lộng hành, ngang ngược đối với thể diện đất nước,
đối với lãnh thổ của Tổ Quốc, thì đảng luôn chỉ đạo ngậm miệng làm
thinh. Chẳng những thế, tất cả những tiếng nói của người dân thể hiện sự
ưu tư trước hiện tình đất nước, trước tương lai và nguy cơ của lãnh thổ
của Tổ Quốc, đều được Đảng ưu tiên xếp vào thế lực thù địch.
Cũng dưới sự “lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CSVN”, người dân dần dần
được đưa vào con đường nô lệ Trung Quốc về kinh tế, văn hóa và chính
trị.
Mọi thứ hàng hóa tiêu dùng đều là Trung Quốc chi phối, từ miếng thực
phẩm, từ món hàng tiêu dùng cho đến tấm bản đồ in hình lưỡi bò treo
trong phòng các quan chức… tất cả đều được Trung Quốc cung cấp. Hàng hóa
tràn ngập với đầy đủ độc tố để làm suy kiệt giống nòi ta về thể lực và
tinh thần.
Về mặt văn hóa, báo chí, tivi tràn ngập phim Tàu, tin Trung Quốc. Báo
chí đưa tin Trung Quốc cứ như đưa tin nhà mình. Thậm chí, tờ báo Đảng
Cộng sản còn để bản tin ghi rõ Hoàng Sa – Trường Sa là của Trung Quốc.
Trong khi tờ báo viết về Biển đảo Việt Nam thì phải đình bản, người in
áo chống đường lưỡi bò, người biểu tình yêu nước thì vào tù. Trong khi
lịch sử Việt Nam cố tình bị quên lãng, xuyên tạc, những chi tiết lịch sử
liên quan đến bọn xâm lăng bị biến tướng, bóc gỡ, che dấu một cách nhục
nhã. Học sinh Việt Nam dần dần quên lịch sử Việt Nam để nhớ lịch sử
Tàu.
Công an Hà Nội bắc loa yêu cầu người dân không tụ tập và tránh xa các con đường gần ĐSQ TQ hôm 18/5/2014
Người dân Việt Nam không thể quên những năm tháng tủi hổ, chỉ cần nhỡ
miệng, chỉ cần mặc chiếc áo có dòng chữ Hoàng Sa – Trường Sa là của
Việt Nam, chỉ cần viết, nói về Biển, Đảo của Tổ Quốc, thì y như rằng có
chuyện với bộ máy công an “còn đảng, còn mình”. Nhẹ, thì phiền toái,
đánh đập, bắt giữ, nặng thì vào trại giam.
Về mặt thể diện quốc gia, đón Tập Cận Bình, đảng đã cho gắn thêm một
ngôi sao chư hầu trên lá cờ Tàu Cộng. Điều này làm ngỡ ngàng cả đất
nước, cả dân tộc… Người dân, dù đã chứng kiến sự hèn hạ của cả bộ máy
nhiều lần cũng không thể ngờ được não trạng nô lệ đã đến mức đó.
Có thể nói, chưa có giai đoạn lịch sử nào, đất nước Việt Nam, người
dân Việt Nam chịu nhục nhã bởi thái độ đê hèn trước ngoại xâm của những
người tự xưng lãnh đạo đất nước như thời gian qua, họ tưởng vậy là sẽ
được yên với quan thầy. Miệng lưỡi tuyên truyền của họ là “Việc biển đảo đã có đảng và nhà nước lo”. Nhưng chưa hết, bọn cướp có bao giờ chùn tay, bọn bành trướng có khi nào dừng lại.
Dù dã tâm xâm lược của kẻ thù đã rõ, hành động xâm lăng của kẻ thù đã
diễn ra khốc liệt hết sức ngang ngược và bạo lực thì những người tự
xưng là lãnh đạo, là trí tuệ, là sức mạnh “bách chiến bách thắng” đã thể
hiện sự khiếp nhược của mình, luôn mồm gọi kẻ thù là bạn, là anh em, là
đồng chí, là bạn vàng… nhằm tiếp tục ôm chân quân xâm lược.
Khi Hoàng Sa, một phần Trường Sa đang nằm dưới gót giày quân xâm lược
Phương Bắc, những người dân tưởng nhớ đến các anh hùng, liệt sĩ đã hi
sinh vi lãnh thổ thiêng liêng đảng đã cho phá đám bằng mấy đứa công an
cầm loa và “cắt đá” bằng một bầy đàn bà nhảy đầm trước tượng tiền nhân
và bao trò mạt hạng hèn hạ khác…
Khi những người yêu nước còn trong tù, những màn đấu tố người yêu
nước còn chưa ráo mực, chưa hết những tiếng vang chói tai của những con
nộm rơm lên án người yêu nước, thì nhà nước đang lo mải miết đi “cưỡng
chế, thu hồi” đất đai, tài sản của nhân dân từ ngàn đời nay để lại bằng
những biện pháp bạo lực và bất nhân.
Khi lãnh thổ Tổ Quốc bị xâm lược, còn nằm dưới gót giày quân xâm
lược, thay vì động viên toàn dân toàn quân chung sức chung lòng bảo vệ
non sông, thì đảng kêu gọi quân đội trung thành với đảng và chống “diễn
biến hòa bình”. Thậm chí đưa quân đội đi “chống diễn biến hòa bình”, đi
cưỡng chế đất đai của dân cho đảng.
Thậm chí, khi giặc hung hãn vào tận nhà, cắm giàn khoan, đâm thủng
tàu bè của lực lượng chấp pháp VN, giết chết ngư dân trên biển Việt Nam,
sau một tháng đã có gần 30 cố gắng đàm phán từ phía Việt Nam, tất cả
đều bị Trung Quốc bỏ ngoài tai. Đến mức đó, đảng vẫn cứ ngậm thinh và Bộ
trưởng Quốc Phòng vẫn kiên quyết “Không để xảy ra xung đột”.
Thương thay cho ông ta, việc xảy ra xung đột không nằm ở ý muốn của ông
ta và cái đảng CS của ông. Cách duy nhất để không phải xung đột, chỉ có
trói tay để tự xin hàng khi giặc đến.
Khi mà đất nước VN đang có một bộ máy cai trị đã rệu rã, ươn hèn và
bạc nhược. Khi mà tình trạng đất nước đã vào tình trạng: “Trong ngoài
lục đục, trên dưới không yên, thiên hạ bất đồng, nhân tâm ly tán”. Bọn
bá quyền biết và thấy rõ cơ hội vạn năm có một đã đến. Có lẽ chưa bao
giờ việc thực hiện mộng bá quyền Đại Hán có điều kiện thuận lợi như giai
đoạn hiện nay.
Và vận nước đã nhanh chóng chuyển qua giai đoạn mới: Tổ quốc bị xâm lăng. Hà Nội, ngày 12/6/2014 J.B Nguyễn Hữu Vinh *Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét