Boxitvn
Bản dịch không chính thức
Hội nghị Xã hội dân sự/Diễn đàn Người dân Asean 2015
Tuyên ngôn của các tổ chức Xã hội dân sự
1. Dẫn Nhập
Hội Nghị Xã Hội Dân Sự (XHDS)/Diễn đàn Người dân
ASEAN (ACSC/APF) này đánh dấu lần thứ 10 kể từ buổi tụ hội khu vực lần
đầu của XHDS tại Malaysia. Chúng tôi, XHDS trong khu vực Đông Nam Á (1),
chào đón sự cam kết của ASEAN từ nhiều năm nay về việc thiết lập một
ASEAN nhân vị và một cộng đồng hoà bình, thịnh vuợng. Đáng tiếc và đáng
quan tâm một cách sâu sắc, các khuyến nghị của người dân nộp cho các
nước thành viên ASEAN từ năm 2005 đã không được thực hiện và cũng không
được áp dụng trong bất kỳ một cách có ý nghĩa nào.
Trong khi các chính quyền ASEAN đang tiến đến phát
triển Viễn kiến hậu 2015 cho Cộng đồng ASEAN, người dân ASEAN tiếp tục
gánh chịu các chế độ độc tài và quân phiệt, tình trạng quân sự hoá gia
tăng, bạo lực và xung đột vũ trang, sự can thiệp ngoại lai phi pháp, sự
thiếu các quyền tự do căn bản và các vi phạm nhân quyền, các tiến trình
phi dân chủ, sự quản lý quốc gia kém và nạn tham nhũng, bất công trong
phát triển, nạn kỳ thị, sự bất bình đẳng, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và
không bao dung. Sự diễn giải hạn hẹp của ASEAN về các nguyên tắc chủ
quyền quốc gia và không can thiệp nội bộ gây trở ngại cho sự hữu hiệu
của tổ chức này trong việc đáp ứng các thách đố mang tính khu vực, và
người dân tiếp tục bị loại khỏi sự tham gia đầy đủ nhằm ảnh hưởng các
tiến trình quyết định chính sách của ASEAN.
Sự thất bại của ASEAN trong việc đáp ứng có ý nghĩa
các vấn đề của người dân bắt rễ sâu từ việc tổ chức đã chọn và tiếp tục
theo đuổi phương thức phát triển dựa trên mô hình kinh tế “tân cấp tiến”
vốn ưu tiên lợi ích của các tập đoàn doanh nghiệp và các nhóm thượng
lưu, bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh, lên trên lợi ích của người
dân. Sự tham gia của chúng tôi vào tiến trình ASEAN do đó dựa trên sự
phê phán và bác bỏ việc bãi bỏ quy định, việc tư hữu hoá, các chính sách
mậu dịch và đầu tư bị điều khiển bởi các tập đoàn doanh nghiệp và nhà
nước mà làm tăng những bất bình đẳng, tăng tốc tình trạng gạt ra lề và
bóc lột, và cản trở hoà bình, dân chủ, phát triển, và tiến bộ xã hội
trong khu vực.
Kiểm điểm quá trình 10 năm tham gia trong ASEAN, và sau nhiều cuộc tham khảo ý kiến rộng rãi(2),
chúng tôi nay nhắc lại các khuyến nghị trước đây và nhấn mạnh bốn ưu
tiên mang tính khu vực và những mối quan tâm bao quát và xuyên suốt.
2. Các ưu tiên khu vực
Công lý trong Phát triển
Mô hình phát triển của ASEAN về hội nhập khu vực, và
những thoả thuận mậu dịch và đầu tư không cân bằng được thương lượng và
thoả thuận bởi các nước thành viên đã thất bại trong việc bảo đảm công
lý về tái phân phối, kinh tế, giới tính, xã hội và môi trường, hoặc quy
trách nhiệm giải trình. Hậu quả là thêm bất công, thiếu bảo vệ xã hội,
từ chối cơ sở hạ tầng cơ bản cho thông tin và truyền thông, suy thoái
môi trường, tác động xấu của biến đổi khí hậu, và sự tước đi có hệ thống
các quyền tiếp cận của người dân đối với đất đai, nước, thực phẩm an
toàn và bổ dưỡng, và các nguồn lực khác. Các công trình kích cỡ lớn về
quặng mỏ và các công trình khai thác khác, sự tăng trưởng ngành nông
nghiệp mang tính cách tập đoàn kinh doanh (kể cả thúc đẩy biến đổi gene
sinh vật), ngành ngư nghiệp mang tính cách thương mại và tập đoàn kinh
doanh, và sự tăng trưởng nuôi trồng thuỷ sản theo tập đoàn kinh doanh
tiếp tục vi phạm quyền của các cộng đồng địa phương trong ASEAN.
Mặc dù mọi quốc gia thành viên ASEAN bỏ phiếu thuận
cho Tuyên ngôn LHQ về Quyền của các Dân tộc bản địa (UN Declaration on
the Rights of Indigenous Peoples, UNDRIP), “phát triển quốc gia” vẫn
được dùng làm cớ để vơ vét và trưng thu đất, lãnh thổ và nguồn lực của
người dân. Hơn nữa, chính sách quốc hữu hóa đất đai thuộc sở hữu của cá
nhân, cộng đồng tôn giáo, và các dân tộc bản địa biện minh cho hành động
chiếm đất và càng gạt ra lề ngày càng đông số người đã và đang bị tước
quyền kinh tế, chính trị, và xã hội.
Nhân quyền của phụ nữ bị đe dọa về cơ bản bởi các
chính sách và chương trình thoái hoá đang công cụ hoá và khai thác phụ
nữ dưói danh nghĩa phát triển. Phụ nữ, trẻ em gái, và các nhóm bị gạt ra
lề khác tiếp tục bị buôn bán và gánh chịu bạo lực tình dục và giới tính
đe dọa đến nhân phẩm và nhân quyền.
Việc tự do hóa thị trường lao động đã tăng số việc
làm bấp bênh và sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến quyền của người lao
động, đặc biệt là phụ nữ, và bao gồm người lao động địa phương và di
công, lao động tình dục, lao động ô sin, và những người lao động trong
khu vực không chính thức bất kể tình trạng có hay không có giấy tờ hợp
pháp của họ.
Tình trạng di công cưỡng bức trở nên trầm trọng hơn
khi nhà nước khước từ người lao động việc làm tốt và lương đủ sống,
quyền tổ chức và thành lập nghiệp đoàn, điều đình tập thể, bảo đảm thời
kỳ hưởng dụng, an sinh xã hội, an toàn nghề nghiệp, tiếp cận dịch vụ y
tế an toàn và giá phải chăng, gồm sức khỏe và quyền tình dục và sinh
sản, tiếp cận giáo dục có phẩm chất, bảo vệ khỏi bạo hành, và một quy
trình hiệu quả nhằm quy trách nhiệm đối với các kẻ buôn người. Sự thất
bại của các quốc gia gốc trong việc bảo vệ công dân bị xuất khẩu lao
động của họ, và sự truy tố của chính quyền nhắm vào những công nhân tố
giác sự bóc lộc, làm tăng nguy cơ lạm dụng và buôn người.
Kế hoạch hội nhập kinh tế khu vực không quy trách
nhiệm cho các công ty về các vi phạm nhân quyền, và các tiêu chuẩn xã
hội và môi trường. Quả thực, các tập đoàn doanh nghiệp được tăng quyền
hạn qua các biện pháp bảo vệ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư và chính quyền (investor-state dispute settlement, ISDS) ghi
trong Thoả thuận Toàn diện về đầu tư của ASEAN về bản kế hoạch thực
hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN. Cơ chế ISDS này tạo uy thế cho các công ty
kiện chính quyền đối với các luật địa phương phục vụ công ích nhưng bất
lợi cho các tập đoàn kinh doanh.
Tiến trình Dân chủ, quản trị, và các Quyền Con người và Tự do cơ bản
Trong nhiều năm, ASEAN cam kết phát huy dân chủ và
nhân quyền khu vực. Trong một nền dân chủ thực sự, người dân có quyền
tham gia đầy đủ, có ý nghĩa, bao hàm mọi thành phần và mang tính đại
biểu bởi người dân. Ý dân phải được thể hiện qua sự quản lý quốc gia
minh bạch và bầu cử tự do, công bằng và công khai trong một hệ thống đa
đảng và đa nguyên. Thế nhưng vẫn không có cơ chế khu vực về tham khảo ý
kiến để XHDS trong ASEAN tham gia vào việc biên soạn và phê phán các
chính sách khu vực. Các tiến trình bầu cử trong khu vực vẫn bị trục trặc
có hệ thống; ý dân tiếp tục bị khống chế ở cả cấp khu vực và quốc gia.
Con số đáng lo ngại của các hạn chế trong khu vực
đang khước từ người dân quyền tự do ngôn luận và thông tin, tự do tôn
giáo hoặc tín ngưỡng, hội họp ôn hoà, và lập hội, cả trong không gian
trực tuyến và ngoài đời. Luật ở một số quốc gia khước từ quyền thành lập
các tổ chức XHDS, các phong trào quần chúng, các định chế tôn giáo độc
lập, các đảng chính trị, và các công đoàn tự do và độc lập.
Các nhân tố nhà nước và phi nhà nước tiếp tục, một
cách không bị truy tố, những xâm phạm nhân quyền, kể cả bạo hành bởi
công an, tra tấn, và bắt cóc, nhắm vào các nhà hoạt động XHDS. Chẳng
hạn, đã không có sự điều tra cấp thời và minh bạch vụ Sombath Somphone(3)
bởi các chính quyền ASEAN, Uỷ hội Nhân quyền Liên chính phủ ASEAN
(AICHR), hoặc bất kỳ cơ chế nhân quyền nào trong khu vực. Các người bảo
vệ nhân quyền tiếp tục bị đàn áp bởi các luật mang tính áp bức, bao gồm
luật chống lại các hoạt động như “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc”,
“tuyên truyền chống nhà nước”, “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, và
các luật chống xúi dục nổi loạn; các luật này khước từ người dân khoảng
không gian chính trị an toàn và xây dựng.
Mặc dù có sự gia tăng vi phạm nhân quyền ở Đông Nam
Á, không một cơ chế nhân quyền nào trong ASEAN có khả năng đáp ứng những
quan tâm này. Cả Uỷ hội Nhân quyền Liên Quốc gia ASEAN (ASEAN
Intergovernmental Comission on Human Rights, AICHR) và Uỷ Hội ASEAN cho
Phụ nữ và Trẻ em (ASEAN the Promotion and Protection of the Rights of
Women and Children, ACWC) thiếu các cơ chế vững chắc để theo dõi, quy
trách nhiệm và thực hiện, và không thể bảo vệ nhân quyền nhất quán với
luật và các tiêu chuẩn quốc tế.
Hoà bình và An ninh
Các tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới tiếp
tục diễn ra trong khu vục ASEAN và giữa các quốc gia ASEAN và không
thuộc ASEAN. Việc thiếu sự cam kết của các quốc gia trong việc thi hành
toàn diện nghĩa vụ ngoài lãnh thổ của họ cũng làm trầm trọng thêm các
vấn đề xuyên biên giới. Những xung đột này thường được sử dụng bởi các
nhà nước để duy trì sự bài ngoại, thành kiến với nữ giới, và chủ nghĩa
dân tộc cực đoan. Sự thất bại và bó tay của ASEAN trong việc đem lại hoà
bình, công lý và phát triển bền vững trong khu vực đã góp phần cho bất
ổn chính trị, tản cư nội địa, tình trạng vô quốc gia, khủng hoảng tị
nạn, buôn người, di dân cưỡng bức, tranh chấp biển và hàng hải, vi phạm
nhân quyền, sinh kế không an toàn cho ngư dân vùng duyên hải, cạnh tranh
tiếp cận và kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bạo hành giới
tính và tình dục và các loại bạo hành khác, và mất an ninh tổng quát cho
con người.
Tuân thủ sát nguyên tắc không can thiệp nội bộ cho
phép các chính quyền hành xử một cách vô tội vạ, duy trì hoặc bỏ qua các
vi phạm nhân quyền, như các vi phạm nhắm vào cộng đồng Rohingya;
Montagnard, H’mong và Khmer Krom; Bangsamoro; Patani; Papuan và trong
các vụ xung đột khác trong khu vực.
Trong các cuộc đàm phán hòa bình và tái thiết sau
xung đột, khu vực này đã thất bại trong việc thiết lập một quá trình
toàn diện và mang tính đại diện bao gồm tất cả các cộng đồng bị ảnh
hưởng và trong việc nhận ra tầm quan trọng của sự đóng góp của phụ nữ và
các nhóm bị gạt ra lề khác cho quá trình này. Các cơ chế hiện có(4)
về giải quyết xung đột không bao quát các tình trạng xung đột vũ trang
cục bộ và chưa hề được dùng một cách hữu hiệu để hoá giải các xung đột
đang diễn ra. Không có cơ chế rõ ràng để thực thi các thoả thuận giải
quyết tranh chấp và không có các công cụ hoặc cơ chế ngăn ngừa xung đột
có tính pháp lý ràng buộc và tính khu vực. Sự thiếu quyết tâm chính trị
dẫn đến việc không tuân thủ các thoả thuận về đình chiến và hoà bình.
Các tác nhân nhà nước và phi nhà nước như các doanh
nghiệp và định chế tài chánh mà làm nặng thêm khủng hoảng đang diễn ra
và/hoặc vi phạm nhân quyền trầm trọng khi xẩy ra xung đột không bị áp
dụng khuôn khổ khu vực hay quốc tế nào về quy trách nhiệm. Hơn nữa, lực
lượng quân sự và bán quân sự được sử dụng để bảo vệ các khoản đầu tư,
chẳng hạn như các dự án khai thác mỏ nước ngoài, các đập, và các đồn
điền, làm trầm trọng thêm tình trạng chiếm dụng đất, và vi phạm hòa bình
và an ninh của các cộng đồng bị ảnh hưởng.
2.4. Phân biệt Đối xử và Bất bình đẳng
Phân biệt đối xử từ chối người dân những quyền vốn có
của họ và duy trì sự mất cân bằng trong quan hệ quyền lực, ngăn chặn
việc thực hiện sự bình đẳng về cơ hội, tiếp cận và lợi ích / thành quả.
Phân biệt đối xử trong và giao nhau giữa nhiều lĩnh vực, mà có thể dẫn
đến sự đàn áp, tác động đến mọi chủng tộc, sự thực hành nội bộ hoặc giữa
các tôn giáo hay tín ngưỡng, sắc dân, quốc tịch, tuổi tác, giới tính,
giai cấp, quy chế chính trị và kinh tế, năng lực, vị trí địa lý, tình
trạng HIV, tình trạng hôn nhân và mang thai, và khuynh hướng/biểu hiện
tình dục và bản sắc giới tính (SOGIE). Điều này được thấy trong đời sống
cá nhân cũng như trong các lĩnh vực công cộng trong cuộc sống của người
dân ở Đông Nam Á.
Sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục
được duy trì, một cách trực tiếp và gián tiếp, trong luật và tập quán
của các tác nhân nhà nước và phi nhà nước, đặc biệt trong khu vực tư
nhân và các nhóm cực đoan. Các tập quán văn hóa, truyền thống, và tôn
giáo không phù hợp với các tiêu chuẩn nhân quyền vẫn không được điều
chỉnh bởi các chính phủ và đôi khi được sử dụng để biện minh cho các
hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Họ hành động để áp đặt các hình
thức gia trưởng của các chuẩn mực và thông lệ truyền thống, dẫn đến hạn
chế và từ chối tư cách pháp nhân riêng biệt, tăng bạo lực đặc biệt trên
cơ sở giới tính và tình dục, và thường được dùng để tăng giới hạn trên
sự di động và tiếp cận đời sống công cộng của người dân, bao gồm giáo
dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản, việc làm, và giữ
vị trí lãnh đạo. Vẫn không có các điều lệ rõ ràng và các cơ chế quy
trách nhiệm để xử lý các vi phạm bởi các tác nhân phi nhà nước.
Với ASEAN tiến đến hội nhập kinh tế khu vực, tăng
trưởng kinh tế không đồng đều và không bền vững sẽ dẫn đến tình trạng
nghèo đói ngày càng tồi tệ, bất bình đẳng về tài sản, tài nguyên, năng
lượng và các cơ hội giữa các nước, giữa người giàu và người nghèo, giữa
nam và nữ giới. Sự bất bình đẳng kinh tế này liên tục ngăn cản người dân
ASEAN thụ hưởng những lợi ích của tăng trưởng kinh tế hay thay đổi tái
phân phối.
Xem xét những ưu tiên khu vực này, các tổ chức XHDS ở
Đông Nam Á nhắc lại các khuyến nghị trước đây của chúng tôi và kêu gọi
ASEAN và các nước thành viên ASEAN cấp thời thông qua và thực thi các
khuyến nghị bao quát và cụ thể sau đây:
Các khuyến nghị bao quát
Chúng tôi kêu gọi các nước ASEAN:
Tuân thủ các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế
Phê chuẩn và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ, kể cả
nghĩa vụ ngoài lãnh thổ, được quy định trong tất cả các hiệp ước nhân
quyền quốc tế, kể cả các Nghị định thư không bắt buộc; dẹp bỏ mọi dè
dặt, nếu có; và thông qua luật cho phép hoặc thiết lập các cơ chế quy
trách nhiệm khác để định chế hoá và hỗ trợ việc thực thi. Mọi quốc gia
phải tuân thủ nguyên tắc không làm mất phẩm giá bằng cải cách và xoá bỏ
tất cả các luật làm yếu quyền sống, quyền tự do và nhân phẩm, bao gồm cả
hình phạt tử hình.
Các văn kiện nhân quyền ASEAN phải tuân thủ đúng luật pháp quốc tế và các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền phổ quát.
3.2. Bảo đảm trách nhiệm giải trình trước người dân ASEAN
3.2.1. Bảo vệ, phát huy, thoả mãn và thực thi nhân
quyền cá nhân và tập thể của mọi người dân, đặc biệt những người dễ bị
tổn thương và bị gạt ra lề. Điều này bao gồm nghĩa vụ ngoài lãnh thổ và
sự công nhận tính tối thượng của các nguyên tắc quốc tế về nhân quyền là
bao trùm và ở trên mọi nghĩa vụ khác.
3.3. Củng cố trách nhiệm của AICHR, ACWC, ACMW (Tuyên
ngôn ASEAN về Phát huy và bảo vệ quyền của di công) và các cơ chế nhân
quyền tương lai
Củng cố các điều khoản quy trách nhiệm và quyền hạn
của các thực thể này nhằm bao gồm thẩm quyền thực hiện các cuộc giám sát
tại chỗ và điều tra, đưa khuyến nghị có tính ràng buộc cho các quốc gia
thành viên, tổ chức kiểm điểm định kỳ tình trạng nhân quyền, lập các tổ
công tác theo các vấn đề chủ đề đang nổi lên, tiếp nhận và giải quyết
các khiếu nại, và định chế hoá một khuôn khổ làm việc bao hàm mọi thành
phần có lợi ích hữu quan, đặc biệt là XHDS, các định chế quốc gia về
nhân quyền, và các nạn nhân / cộng đồng bị ảnh hưởng.
Tuân thủ nguyên tắc minh bạch, vô tư và độc lập, và,
cũng như được chỉ ra trong văn bản quy phạm của AICHR và ACWC5, bảo đảm
nhân sự bổ nhiệm thoả mãn những đòi hỏi tối thiểu như là kinh nghiệm
chuyên môn trong một lĩnh vực nhân quyền, có thành tích tốt về nhân
quyền, và có khả năng đảm đương các nghĩa vụ một cách công minh, thẳng
thắn và độc lập đối với chính quyền bổ nhiệm.
Triển khai một quá trình minh bạch, có tính tham gia,
và bao hàm với sự tham gia của XHDS, các định chế nhân quyền quốc gia,
và các bên liên quan trong việc lựa chọn và bổ nhiệm.
Ghi nhận các cam kết quốc tế trong Tầm nhìn Hậu 2015 của Cộng đồng ASEAN(6)
Bảo đảm các tiêu chuẩn và các yếu tố trong Tầm nhìn
hậu 2015 của Cộng đồng ASEAN và Các mục tiêu phát triển ASEAN được đề
xuất sẽ đáp ứng các cam kết quốc tế về quyền con người và không làm suy
yếu các nguyên tắc phổ quát của sự bình đẳng và không phân biệt đối xử.
Cam kết một khuôn khổ nhằm dỡ bỏ các quy tắc và hệ thống cho phép sự bất
bình đẳng nghiêm trọng về tài sản, quyền lực, và các nguồn lực giữa các
quốc gia, giữa người giàu và người nghèo, giữa đàn ông và phụ nữ và các
nhóm xã hội khác. Áp dụng một phương thức bao hàm và xây dựng để cho
XHDS tham gia vào quá trình soạn thảo, và vào việc giám sát sự thực hiện
Tầm nhìn hậu 2015.
Các khuyến nghị đặc thù đối với các ưu tiên tồn tại trong khu vực
ASEAN và các quốc gia thành viên cần:
Phát triển sự hội nhập của Cộng đồng ASEAN bắt rễ vào
các giá trị thúc đẩy hợp tác, đóng góp tích cực cho sự phát triển, sự
tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các tổ chức XHDS, và
công lý phát triển mà bảo đảm công lý về tái phân phối(7), kinh tế(8), môi trường(9), giới tính và xã hội(10) cũng như trách nhiệm giải trình.(11)
Thiết lập các cơ chế giải trình ràng buộc lên các tác
nhân nhà nước và tư nhân, và công nhận và phát huy quyền của mọi người
dân ASEAN. Điều này bao gồm: bảo đảm mọi biện pháp giảm nghèo phải hài
hoà với sự bền vững sinh thái và môi trường; hưởng ứng các đề xuất như
Hợp tác Chính quyền mở (Open Government Partnership) tuân thủ Nguyên tắc
hướng dẫn của LHQ về Kinh doanh và Nhân quyền; chấm dứt các chính sách
trưng thu đất dưới vỏ bọc của phát triển kinh tế mà đã dẫn đến tác động
tàn phá đối với người dân bản địa và sinh thái của họ; và ban hành pháp
luật tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và quyền sở hữu tập thể của các cộng
đồng về đất đai.
Đề phòng nới rộng quyền sở hữu trí tuệ trong các hiệp
định mậu dịch quốc gia hay khu vực mà giới hạn việc tiếp cận hạt giống,
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ miễn phí hay với phí phải chăng, cũng như
thông tin bao gồm nghiên cứu công cộng và nội dung sáng tạo, và làm suy
yếu sức khoẻ công cộng, quyền của nông dân, và kiến thức và các tập quán
truyền thống của các dân tộc bản địa, giữa các hậu quả không mong muốn
khác.
Thiết lập trụ cột môi trường và chấp nhận một quan
điểm chung về biến đổi khí hậu, nhấn mạnh trách nhiệm chung nhưng có
phân biệt, và bảo vệ nó tại Hội nghị của các bên lần thứ 21. Kết hợp các
nguyên tắc của Tuyên bố Rio và Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí
hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change), ASEAN cần
thực hiện sự hợp tác khu vực về thích ứng và giảm nhẹ, mà tiêu điểm là
bảo vệ an ninh thực phẩm, tăng sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và
cung cấp nguồn tài trợ lâu dài, đặc biệt để làm giảm các mất mát và
thiệt hại.
Cung cấp sự công nhận hợp pháp cho người dân bản địa
là công dân có quyền bình đẳng tập thể về sự đồng ý tự do, trước, và có
thông tin, và về đất đai, lãnh thổ, và các nguồn lực như được ghi nhận
trong UNDRIP và các văn kiện quốc tế khác bao gồm Tài liệu kết quả của
Hội nghị thế giới về các dân tộc bản địa.
Bảo đảm rằng việc quyết định chính sách và các đàm
phán mậu dịch phải minh bạch và nhất quán với các nghĩa vụ nhân quyền,
đặc biệt ở cấp địa phương. Điều này bao gồm: Tiếp nhận ý kiến của XHDS
và các phong trào xã hội, bao gồm các phong trào đại diện nông dân, phụ
nữ, giới trẻ, các người đồng tính/lưỡng tính/chuyển giới, cộng đồng nông
thôn, và công nhân trong thiết kế, thực hiện và giám sát các phương
thức viện trợ, và các chương trình và chiến lược phát triển.
Ban hành các luật và chính sách quốc gia tuân thủ mọi
hiệp ước nhân quyền quốc tế và các định mức và tiêu chuẩn của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) trong dự đoán về thị trường lao động mở thuộc
Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015. Điều này bao gồm: Bảo đảm người lao động
có quyền về sự bảo đảm việc làm, việc làm tốt, mức lương đủ sống, lương
bổng như nhau cho công việc có giá trị ngang nhau, môi trường làm việc
an toàn và an ninh với bình đẳng giới, thương lượng tập thể, và tổ chức
công đoàn; tránh cho phụ nữ khỏi gánh nặng chăm sóc không lương và làm
việc gia nhân thông qua việc cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng về
chăm sóc xã hội, chính sách bảo trợ xã hội, và sự thúc đẩy việc chia sẻ
trách nhiệm trong gia đình và cộng đồng; và xóa bỏ nạn lao động trẻ em,
lao động cưỡng bức, buôn người và các chương trình xuất khẩu lao động
của chính phủ mà bóc lột di công, tăng xu hướng dịch vụ mai mối hôn nhân
quốc tế cho mục tiêu thương mại và dẫn đến tình trạng buôn người.
Áp dụng một công cụ pháp lý ràng buộc phù hợp với các
tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế để bảo vệ và phát huy quyền của tất cả
các di công và gia đình của họ bất kể tình trạng di trú.
4.2. Bảo vệ Tiến trình Dân chủ, Quản lý Quốc gia, và các Quyền và Tự do căn bản
Tuân thủ và thiết lập các cơ chế để bảo đảm sự tham
gia có ý nghĩa và đáng kể, sự bao hàm và tính đại diện cho mọi người dân
ASEAN trong mọi tiến trình ở cấp quốc gia và cấp vùng mà không bị định
kiến hoặc hạn chế.
Cải tổ ngay các hiến pháp và luật pháp mà hạn chế hay
từ chối sự tham gia dân sự và chính trị đầy đủ của người dân trong tiến
trình dân chủ và các tiến trình khác, kể cả các luật phù hợp với Tuyên
bố Bangkok về Bầu cử tự do và công bằng, và thiết định các luật để phát
huy sự minh bạch và sự tham gia của người dân trong việc quản lý quốc
gia, kể cả quyền thành lập đảng chính trị và có tiếng nói đối lập.
Ngưng mọi vi phạm nhân quyền và đàn áp nhắm vào các
người bảo vệ và người hoạt động nhân quyền. Điều này bao gồm: Xoá bỏ các
luật hạn chế tự do ngôn luận, cả trực tuyến lẫn ngoài đời, và tự do tôn
giáo hoặc tín ngưỡng; trả tự do cho những người bị bỏ tù hoặc bị giam
giữ chiếu theo các luật này; cải cách pháp luật mà hạn chế việc tiếp cận
thông tin một cách tự do và mở; ngay lập tức ký, phê chuẩn và thực hiện
các biện pháp phù hợp với Công ước về bảo vệ tất cả mọi người trước Nạn
Mất tích Ép buộc và Nghị quyết về Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền của
Hội đồng Nhân quyền LHQ; và nghiêm cấm và trừng phạt tất cả các hình
thức bạo lực bởi các tác nhân nhà nước hay phi nhà nước, bao gồm hành vi
bạo lực, tra tấn và bắt cóc bởi công an.
Cam kết Hoà bình và An ninh
Chứng minh sự cam kết về an ninh toàn diện và tập thể
như đã nêu trong Kế hoạch thực hiện về chính trị-an ninh của ASEAN bằng
cách cắt giảm chi tiêu quân sự, bảo đảm sử dụng có trách nhiệm và minh
bạch ngân sách nhà nước cho phát triển cộng đồng, và cung cấp một môi
trường thuận lợi cho sự tham gia có ý nghĩa và có sự đại diện của phụ nữ
trong các quá trình làm quyết định, bao gồm hỗ trợ cho phụ nữ tham gia
lãnh đạo, và giáo dục cộng đồng để chống lại mọi hình thức phân biệt đối
xử và bạo lực trên cơ sở giới tính.
Thiết lập Cơ chế ngăn ngừa và giải quyết xung đột như
là một công cụ khu vực để ngăn ngừa và đáp ứng khẩn cấp. Cụ thể, bao
hàm điều khoản ngăn ngừa trong Cơ chế giải quyết xung đột(12) trong kỳ duyệt xét Hiến chương ASEAN kế đến.
Hành xử trong sự tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc về
hoà bình và an ninh được ghi trong Hiến chương LHQ và phê chuẩn và/hoặc
thực hiện mọi luật quốc tế về nhân quyền, luật quốc tế về nhân đạo, đặc
biệt các Công ước Geneva năm 1949, Công ước Liên quan Tình trạng Người
tị nạn (1951) và Nghị định thư 1967, cũng như Công ước Liên quan Tình
trạng Người vô quốc gia (1954); các nghĩa vụ chiếu theo Nghị định thư
Không bắt buộc về trẻ em tham gia xung đột vũ trang của Công ước về
Quyền của Trẻ em; Quy điều Roma về Toà án Tội phạm Quốc tế, và ấn định
các biện pháp rõ rệt như là một phần của quyền tài phán quốc gia về truy
tố tội phạm chiến tranh, và các tội chống nhân loại hay diệt chủng.
Bảo đảm rằng các hệ thống công lý và bồi thường phù
hợp với khuôn khổ nhân quyền quốc tế, bao gồm Bộ nguyên tắc cập nhật của
Liên hiệp quốc về Bảo vệ và Thúc đẩy Nhân quyền thông qua hành động để
chống việc không bị trừng phạt (2005), là tiền đề về quyền biết sự thật,
quyền công lý và quyền được bồi thường/bảo đảm không bị tái phạm.
Công nhận những đóng góp đáng kể của phụ nữ và người
dân bản địa trong quá trình xây dựng hoà bình và phục hồi chức năng và
tái thiết sau xung đột. Điều này bao gồm: Đề xuất và thực hiện Kế hoạch
hành động Quốc gia về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh phù hợp với các nguyên
tắc được ghi trong Nghị quyết Hội đồng Bảo an LHQ số 1325 về Phụ nữ,
Hòa bình và An ninh, các nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ số 1820 và
1888, Công ước CEDAW và Khuyến nghị chung số 30; cung cấp các biện pháp
hiệu quả và kịp thời cho các loại hành vi vi phạm khác nhau được trải
nghiệm bởi tất cả phụ nữ và trẻ em và sự bồi thường đầy đủ và toàn diện;
và giải quyết tất cả các hành vi vi phạm trên cơ sở giới, trong đó có
hành vi vi phạm về quyền tình dục và sinh sản, bắt làm nô lệ gia nhân và
tình dục, hôn nhân cưỡng ép, và cưỡng bức di dời bên cạnh bạo lực tình
dục, cũng như vi phạm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên
giới theo nguyên tắc là các nguồn tài nguyên ngoài phạm vi của quyền tài
phán quốc gia là di sản chung của tất cả các dân tộc và các quốc gia.
Điều này bao gồm: Làm việc với tất cả các bên và các quốc gia liên quan
để giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật
pháp quốc tế, bao gồm Công ước LHQ về Luật Biển (1982), Tuyên bố về Cách
Ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa và làm việc hướng tới Bộ luật
Ứng xử ở Biển Nam Trung Hoa; giải quyết các vấn đề biển và hàng hải theo
nguyên tắc mà các đại dương được mở cho tất cả các nước, và rằng không
một quốc gia nào có thể nhận một cách hợp lệ bất kỳ một phần nào của đại
dương là thuộc chủ quyền của mình. Cuối cùng, khai phá những phương án
quản trị chung giữa các quốc gia tranh chấp trên khu vực tranh chấp.
Chấm dứt Phân biệt Đối xử và Bất bình đẳng
Chấp nhận ngay lập tức định nghĩa “không phân biệt
đối xử” được định nghĩa bởi luật nhân quyền quốc tế, nhất là Công ước
Quốc tế Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử vì chủng tộc
(International Convention on the Elimination of All Forms of Racial
Discrimination, CERD), Công ước Quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of
Discrimination against Women, CEDAW) và Công ước Quốc tế về Quyền của
người khuyết tật (Convention on the Rights of Persons with Disabilities,
CRPD); xóa bỏ ngay mọi hình thức phân biệt đối xử, gồm phân biệt trên
cơ sở chủng tộc, thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong nội bộ hay
giữa các tôn giáo, sắc dân, quốc tịch, tuổi tác, giới tính, giai cấp,
tình trạng chính trị và kinh thế, năng lực, vị trí địa dư, tình trạng
HIV, tình trạng hôn nhân và mang thai, và khuynh hướng tình dục và bản
sắc/biểu hiện giới tính.
Thừa nhận sự xẩy ra ở nhiều nơi và sự giao nhau giữa
nhiều lĩnh vực trong phân biệt đối xử và thực hiện sự bình đẳng thực
chất thông qua những biện pháp bảo đảm về cơ hội bình đẳng, tiếp cận
bình đẳng và phúc lợi bình đẳng cho mọi dân tộc, mọi thành phần, kể cả
phụ nữ, người đồng tính/lưỡng tính/chuyển giới, trẻ em và giới trẻ.
Loại bỏ các khoản đạo đức công cộng và các biện minh
theo thuyết tương đối văn hóa dùng để từ chối và vi phạm các quyền của
người dân, đặc biệt là phụ nữ, người đồng tính/lưỡng tính/chuyển giới,
và các nhóm bị gạt ra lề và dễ bị tổn thương khác; và tạo ra các cơ chế
trách nhiệm giải trình đặc biệt để đối phó các vi phạm bởi các tác nhân
phi nhà nước.
Kết luận
Chúng tôi, XHDS của ASEAN, hướng dẫn bởi các nguyên
tắc nhân quyền, dân chủ, quản lý tốt, thượng tôn luật pháp, không phân
biệt đối xử, bình đẳng thực chất, cấp tiến và không thoái hoá, tiếp tục
đoàn kết trong mưu cầu cho sự phát triển khu vực ở Đông Nam Á mà đề cao
dân chủ, hoà bình và an ninh, nhân quyền cá nhân và tập thể, và phát
triển bền vững, cho một “ASEAN nhân vị” và biến đổi.
Chúng tôi, do đó, nhắc lại các khuyến nghị trước đây
và kêu gọi các quốc gia thành viên ASEAN hãy nghiêm chỉnh cứu xét các ưu
tiên mang tính khu vực vẫn tồn tại và các khuyến nghị, và có biện pháp
tức thì và tích cực để thực hiện chúng.
Chú thích:
(1) Xã hội dân sự của ASEAN được đại diện bởi các tổ
chức XHDS, các tổ chức cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, các phong
trào xã hội của phụ nữ, trẻ em, thanh thiếu niên, di công, công nhân
chính thức và không chính thức trong khu vực thành thị và nông thôn,
người khiếm dụng, nghiệp đoàn, người lao động tình dục, dân tộc bản địa,
sắc dân thiểu số, nông dân, ngư dân hoạt động tầm vóc nhỏ, người tị nạn
và vô quốc gia, gia nhân, các người đồng tính/lưỡng tính/chuyển giới,
các người bảo vệ nhân quyền và các nhóm khác.
(2) Bản tuyên bố này được chấp thuận tại kỳ Họp Tham
khảo khu vực lần 3 của ACSC/APF 2015 (23 – 24 tháng 1, 2015) ở Malaysia.
Trước đó là Họp tham khảo khu vực lần 1 ngày 24 – 25 tháng 9, 2014 và
Họp tham khảo khu vực lần 2 ngày 11 – 12 tháng 12, 2014. Việc biên soạn
cũng được thông qua một tiến trình tham khảo nghiêm ngặt của các nhóm
chủ đề ở cấp vùng và quốc gia.
(3) Sombath Somphone, nhà phát triển cộng đồng lừng
danh quốc tế và nhân vật nổi tiếng trong xã hội dân sự Lào, mất tích sau
khi cảnh sát chặn xe của ông ngày 15 tháng 12 năm 2012 tại thủ đô. Sau
đó ông ta bị chuyển sang một xe khác, dựa theo video của cảnh sát, và
biệt tăm cho đến giờ. Các báo cáo nói rằng chính quyền Lào tiếp tục phủ
nhận trách nhiệm trong vụ mất tích này.
(4) 1976 Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (TAC), ký kết
tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần đầu tiên ngày 24 tháng Hai năm 1976
tại Denpasar, Bali; 2004 Nghị định thư ASEAN về Tăng cường Cơ chế giải
quyết tranh chấp, được thông qua bởi các Bộ trưởng kinh tế tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN 10 tại Vientiane, Lào ngày 29 tháng 11 năm 2004; 2010
Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về Cơ chế giải quyết tranh chấp,
được thông qua tại Hà Nội, Việt Nam ngày 08 tháng 4 năm 2010.
(5) Văn kiện quy phạm của AICHR Chương 5, và Văn kiện quy phạm của ACWC Chương 6.
(6) Tuyên bố Nay Pyi Daw về Tầm nhìn 2015 của Cộng Đồng ASEAN, Nay Pyi Daw, 12 tháng 11, 2014
(7) Công lý về tái phân phối nhắm làm giảm sự bất
bình đẳng giữa và trong các quốc gia, ở phụ nữ và nam giới, và giữa các
nhóm xã hội và sắc dân khác nhau thông qua các chính sách phân phối lại
nguồn lực, sự giàu có, quyền lực và cơ hội.
(8) Công lý về kinh tế nhắm phát triển kinh tế để tạo
cuộc sống đàng hoàng, phù hợp với nhu cầu và tạo điều kiện cho khả
năng, việc làm và sinh kế sẵn có cho tất cả mọi người.
(9) Công lý về môi trường thừa nhận trách nhiệm lịch
sử của những người chịu trách nhiệm về các vi phạm nhân quyền, sự nóng
lên toàn cầu và thảm họa môi trường, và buộc họ phải giảm bớt và bồi
thường các nhóm thiệt thòi do hành động của họ.
(10) Công lý về giới tính và công lý xã hội loại bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử, cách ly, loại trừ và bạo lực.
(11) Quy trách nhiệm giải trình trước những đòi hỏi
của người dân về chính quyền dân chủ và công bằng, minh bạch và quản trị
tốt cho phép mọi người dân làm quyết định cho cuộc sống riêng, cho cộng
đồng và cho tương lai của chính họ.
(12) Nghị định thư năm 2010 của Hiến chương ASEAN về
Cơ chế giải quyết tranh chấp. Được thông qua tại Hà Nội, Việt Nam vào
ngày 08 tháng 4 2010.
Nguồn: Bản dịch sang tiếng Việt (không chính thức) do Huỳnh Thục Vy gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét