Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954. -Photo courtesy of wikipedia
Your browser does not support the audio element.
Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt tròn 40 năm. Cho đến nay những ký ức
và hậu quả của cuộc chiến đó vẫn chưa phai nhòa. Giới trẻ trong nước và
hải ngoại có cái nhìn thế nào về câu chuyện lịch sử đau thương này và
sự hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc trong hiện tại và tương lai? Đó
chính là những điều mà tạp chí diễn đàn bạn trẻ mong muốn được truyền
tải đến quý vị và các bạn cho đến hết ngày 30/4/ 2015.
Và trong kỳ này mời quý vị cùng đến với những suy nghĩa của giới trẻ về
các hiệp định geneve 1954 và paris 1873. Cùng với 3 bạn khách mời, Minh
Hiển, Trường Sơn và Catherine Nguyễn.
Được học những gì?
Chân Như: Khi còn đi học, các bạn được dạy những gì về Hiệp
định Geneve 1954 và Paris 1973? Các bạn thấy những gì được dạy đã thực
sự đầy đủ hay chưa? Catherine Nguyễn: Ngày xưa em di học, có được học về hiệp
định Geneve 1954 và Paris 1973. Hiệp định Geneve em được nghe giáo
viên nói là do các “thế lực thù địch” chú tâm gây chia rẽ như
Mỹ, Anh, Liên xô và Trung quốc Theo quan điểm của họ, họ đều nói
là không nên có hiệp định Geneve 1954 và những gì mà các học
sinh học dưới mái trường XHCN về 2 hiệp định này là không đầy
đủ.
Ngày xưa em di học, có được học về
hiệp định Geneve 1954 và Paris 1973. Hiệp định Geneve em được nghe
giáo viên nói là do các “thế lực thù địch” chú tâm gây chia
rẽ như Mỹ, Anh, Liên xô và Trung quốc Theo quan điểm của họ, họ
đều nói là không nên có hiệp định Geneve 1954.
-Catherine Nguyễn
Trường Sơn: Khi còn học trung học thì hai hiệp định này em
được dạy nó như là thành quả của cuộc đấu tranh của ĐCSVN và nhân dân
VN. Hiệp định Geneve 1954 là thành quả của ĐCSVN khi đã đánh bại thực
dân Pháp ở trận Điện Biên Phủ và buộc người Pháp phải ngồi vào bàn đàm
phán. Và hiệp định paris 1973 họ cũng dùng cái mô típ giống như vậy đó
là cuộc chiến mà họ gọi là Điện Biên Phủ trên không; Có nghĩa là khi
người Mỹ dùng oanh tạc cơ đánh bom miền Bắc sau khi bị quân phía Bắc
đánh bại buộc phải ngồi vào bàn đàm phán. Hai cái này là thành quả đấu
tranh kiên cường của quân và dân miền Bắc em được dạy là như vậy. Minh Hiển: Không chỉ riêng chương trình phổ thông mà ngay cả
những thông tin được gọi là chính thống về các sự kiện này ở trong nước
thì hiện nay vẫn không đầy đủ, thường chỉ mang tính một chiều từ những
người thắng cuộc. Vì thế, những ý mà bạn Catherine và bạn Sơn đã nói rồi
nên em không nhắc lại nữa em chỉ nói đến một điều: có rất nhiều yếu tố
mà các thông tin chính thống không được nhắc đến ví dụ như các hiệp định
Geneve nó có thực sự hứa hẹn một tương lai thống nhất đất nước Việt Nam
hay không? Hay là Việt Nam chỉ là một con bài trong kế hoạch nhuộm đỏ
từng phần của quốc tế CS? Hoặc là quan điểm của phía quốc gia Việt Nam
như thế nào? Đấy là những vấn đề mà những chương trình chính thống không
hề nhắc đến vì vậy thường các bài học lịch sử thường mất đi tính khách
quan mà lẽ ra phải có. Chân Như: Có một chi tiết khá thú vị thế này: đại diện của
Quốc gia Việt Nam đã không ký vào Hiệp định Geneve năm 1954. Theo các
bạn, tại sao lại có chuyện như vậy? Trường Sơn: Theo em tìm hiểu thì em biết được chi tiết đó: đại
diện của quốc gia Việt Nam đã không ký vào hiệp định Geneve 1954. Em
biết rằng trước khi trận Điện Biên Phủ giữa Pháp và Việt minh xảy ra thì
ở Việt Nam đã được lập lên thành một chính phủ tên là Quốc Gia Việt Nam
và ban đầu đứng đầu là vua Bảo Đại và sau đó được trao lại cho ông Ngô
Đình Diệm. Khi đại diện quốc gia Việt Nam đến với hội nghị Geneve 1954
thực sự không được công nhận là một bên đàm phán bởi vì trong tay họ
không có thực quyền về chủ quyền cũng như về sức mạnh quân sự kinh tế.
Thế nhưng nguyên nhân chính mà em được biết lý do tại sao họ không ký
vào hiệp định này đó là một điều khoản khiến cho đất nước Việt Nam bị
chia cắt, đó là họ sử dụng sông Bến Hải vĩ tuyến 17 để chia cắt hai vùng
Nam Bắc và từ đó người dân cũng như quân cũng như những người theo hai
phía này sẽ phải đi về theo phía bên mình. Có một chi tiết là đại diện
của quốc gia Việt Nam đã khóc tại hội nghị này vì ông cho rằng từ đây
nước Việt sẽ rơi vào một cảnh bi thảm và lịch sử đã chứng minh rằng điều
lo lắng của ông là sự thật.
Ông Nguyễn Duy Trinh (giữa), đại diện Bắc
Việt Nam, ký thỏa thuận ngừng bắn cuộc chiến Việt Nam, ảnh chụp ngày 27
tháng 1 năm 1973 tại Paris.
Minh Hiển: Hiệp định Geneve gồm 2 phần một là đình chỉ chiến
sự trong đấy có đề khoản chia hai miền theo vĩ tuyến 17; Phần 2 là bản
tuyên bố cuối cùng về lập lại hoà bình ở Đông Dương trong đấy có đề cập
đến giải pháp chính trị tổng tuyển cử để thống nhất đất nước thì phía
quốc gia Việt Nam đã từ chối ký hiệp định này có thể hiểu theo lập
trường ban đầu của phái đoàn quốc gia Việt Nam là đòi hỏi sự thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ. Rất có thể phiá quốc gia Việt Nam họ nhận thức rất
rõ những kế hoạch nhuộm đỏ từng phần của quốc tế CS và họ phản đối việc
chia cắt đất nước đấy. Nhưng cũng cần nên hiểu vì nếu chấp nhận hiệp
định này thì phiá quốc gia Việt Nam họ sẽ gặp một cái rất là bất lợi so
với phiá Bắc Việt, bởi vì sau trận Điện Biên Phủ thì uy thế của quân đội
Việt Minh đang lên rất cao, miền Bắc đang sôi sục về tinh thần dành độc
lập dân tộc từ tay thực dân Pháp. Hơn nữa, trên thực tế, dân Miền Nam
ít hơn Miền Bắc- lúc đấy chừng 2 triệu người bao gồm cả dân miền Bắc di
tản vô Nam. Đây cũng là yếu tố bất lợi mà phía quốc gia Việt Nam không
thể không tính đến. Vì thế có những lý do đấy mà phía quốc gia Việt Nam
đã không đồng ý với hiệp định Geneve năm 1954.
Vi phạm hay tuân thủ?
Chân Như: Liên quan đến Việt Nam, mục đích đầu tiên của các
bản hiệp định này là nhằm kiến tạo một nền hòa bình lâu dài. Các bạn có
nhận xét gì về việc thực thi các bản hiệp định của các bên? Họ vi phạm hay tuân thủ? Vi phạm hay tuân thủ như thế nào? Catherine Nguyễn: Hiệp định Geneve quy định là các bên
phải rút hết quân đội về, như là phe cộng sản tập trung về
Bắc và quân đội Pháp được trao trả về miền Nam. Tuy nhiên, lúc
đó phe cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng cơ hội hàng chục ngàn
đảng viên chưa bị lộ danh sách đã lén cho họ nằm vùng trong Nam
và chôn cất rất nhiều vũ khí. Trong số những người nằm vùng
đó có Lê Duẩn, người sau năm 1975 làm tổng bí thư CSVN. Việc họ
làm là đã vi phạm trắng trợn hiệp định Geneve. Còn về hiệp
định Paris 1973 thì khi đó đã thỏa thuận là Mỹ và đồng minh
rút quân về hết và trao quyền tự quyết cho Việt Nam thông qua
bầu cử chứ không dùng vũ trang; vậy mà khi Mỹ và đồng mình
vừa rút hết thì phe cộng sản bắc việt đã vâng lệnh quan thầy
Nga, Tàu xé bỏ hiệp định và xua quân đánh chiếm miền Nam. Đây
là điều mà dưới các trường học hiện nay học sinh không được
học và biết điều này. Thắng lợi của phe cộng sản miền Bắc
khi đó đang ở thế mạnh được Nga, Tàu và Đông Âu viện trợ vũ
khí và quân trang tối đa trong khi miền Nam đã hoàn toàn bị cắt
giảm viện trợ, cạn kiệt và không còn khả năng chiến đấu. Minh Hiển: Em chỉ nói chung chung về vấn đề này thôi. Như đã
nói ở trên người dân Việt Nam chưa khi nào tự quyết một cách độc lập về
số phận của mình mà luôn nằm trong sự toan tính của các nước lớn. Vì
vậy,một tinh thần thống nhất dựa trên lợi ích dân tộc và nhân dân là
điều rất khó mà đạt được ngoài ra cộng với sự thiếu vắng những chế tài
mà đủ khả năng kiểm soát các việc thực thi hiệp định khiến cho các bên
cho dù họ đã ký vào các hiệp ước đấy rồi nhưng sau này họ vẫn luôn tìm
cách thực hiện theo cách có lợi nhất cho mình hoặc ngấm ngầm vi phạm các
hiệp định đấy.
Đánh giá cá nhân của em thông qua những
tài liệu em đọc được thì cách ứng xử của các bên của bản hiệp định
Geneve 1954 và Paris 1973 cho em có một nhận xét rằng cả hai bên đều có
những sự tuân thủ cũng như vi phạm nhất định từ phía mình.
-Trường Sơn
Trường Sơn: Đánh giá cá nhân của em thông qua những tài liệu
em đọc được thì cách ứng xử của các bên của bản hiệp định Geneve 1954 và
Paris 1973 cho em có một nhận xét rằng cả hai bên đều có những sự tuân
thủ cũng như vi phạm nhất định từ phía mình. Cụ thể hơn bản hiệp định
Geneve 1954 như chị Catherine đã nói rằng chính quyền Việt Minh phía Bắc
đã vi phạm hiệp định này khi họ đã không rút hết người của mình về phiá
Bắc. Trong bản hiệp định 54 em nói thêm là chính sự không tuân thủ của
phiá Bắc đã khiến cho sự thực hiện bản hiệp định không được đảm bảo khi
mà lực lượng của phía Bắc còn lại ở miền Nam còn quá lớn và chính lực
lượng này về sau đã gây sự rối loạn ở trong xã hội miền Nam. Còn hiệp
định Paris 1973 trước tiên miền Nam Việt Nam là VNCH là phiá tỏ ra tích
cực hơn về mặt tuân thủ thế nhưng họ cũng có những động thái không tuân
thủ đó là trong hiệp định paris 1973 cũng nêu rõ là hai bên phải ngừng
bắn thế nhưng ở trong phiá VNCH cũng đã có những chiến dịch cụ thể để nổ
súng bắn nhau. Chuyện này là có thật. Tuy nhiên, trong hiệp định paris
1973 thì một lần nữa phía Bắc là phía vi phạm trắng trợn hơn khi đã công
khai xua quân để thâu tóm miền Nam chứ không chịu thực hiện theo như
cam kết hiệp định paris 1973 đó là thống nhất trong hoà bình. Chân Như: Theo các bạn, ứng xử của các bên đối với các bản
hiệp định, đặc biệt là HĐ Paris năm 1973 đã ảnh hưởng thế nào tới kết
quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam năm 1975? Catherine Nguyễn: Bản hiệp định hòa bình Paris tuy là
chấm dứt chiến tranh Việt Nam nhưng trên thực tế là văn bản khai
tử VNCH vì lúc đó tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu không muốn
ký vào bản hiệp định vì ổng hiểu rằng cộng sản sẽ không tôn
trọng hiệp ước và có lẽ số phận của miền Nam đã được định
đoạt từ hiệp định paris 1973 đó; Dựa vào đó Hoa kỳ gây sức ép
buộc VNCH phải ký hiệp định để có lý do chính đáng tháo chạy
khỏi miền Nam. Trường Sơn: Nói rằng Hiệp định Paris 1973 là văn kiện khai tử
Việt Nam Cộng Hoà cũng đúng. Thế nhưng nó không phải là văn bản kiên
quyết để dẫn đến sự sụp đổ của VNCH. Lịch sử ghi nhận rằng sau năm 1973
thì quân đội Mỹ đã hoàn toàn rút khỏi miền Nam Việt Nam chỉ còn giữ lại
lực lượng cố vấn mà thôi. Tuy nhiên, ở phía Bắc thì vẫn còn rất nhiều
những chuyên gia quân sự cũng như là những đồng minh. Bản hiệp định
Paris 1973 đã trực tiếp ảnh hưởng tới cục diện cũng như là làm thay đổi
lịch sử Việt Nam rất nhiều đặc biệt là năm 1975. Bản hiệp định này đã
trói chân trói tay chính quyền VNCH. mình phải sử dụng từ như vậy vì
trước đó chính quyền Mỹ cũng đã có những thỏa thuận ngầm với chính quyền
TQ là bộ binh Mỹ cũng như bộ binh VNCH sẽ không bao giờ được phép vượt
vĩ tuyến 17. Trong khi chúng ta đều biết rằng quân đội miền Bắc Việt Nam
tự do xông vào miền Nam, đó là một cái thua thiệt từ trước, thì nay bản
hiệp định này lại cắt thêm một phần nữa quan trọng hơn của VNCH là họ
bị mất đi đồng minh của mình trong khi phía Bắc vẫn còn nguyên 2 đồng
minh to lớn đó là Liên Xô và Trung Quốc. Như vậy sự chênh lệch được thể
hiện một cách rất là rõ ràng khi phiá Bắc Việt Nam với đội quân đông đảo
hơn và được sự giúp sức của hai cường quốc đã tỏ ra chiếm ưu thế rõ rệt
trước phía miền Nam với lúc này là đang tự mình chống chọi và trong khi
đó sự viện trợ của Mỹ cũng đang bị cắt giảm một cách dần dần. Minh Hiển: Theo em thì hiệp định 1973 đã an bài rất rõ số phận
của VNCH tức là ảnh hưởng trực tiếp. Theo đánh giá cá nhân em, cho dù
có không xảy ra vụ watergate hay tổng thống Nixon tái đắc cử thì ông
cũng không thể nào qua mặt được quốc hội Hoa kỳ và đảng dân chủ để hậu
thuẫn cho VNCH nữa bởi vì như chúng ta hình dung thì mọi tài trợ của Mỹ
dành cho VNCH đều phải thông qua ngân hàng các nhà băng vân vân đều là
những thứ công khai và rất dễ dàng kiểm soát. Trong khi đấy miền Bắc
Việt Nam thì vẫn luôn luôn nhận được các sự ủng hộ từ Liên Xô và Trung
Quốc và sự thực thi nghiêm túc hiệp định Paris năm 1973 là điều rất khó
kiểm soát. Cái đấy tạo ra sự mất cân bằng giữa Mỹ và Bắc Việt. Và ngoài
ra tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn bởi vì mình hiểu là phong
trào phản chiến lại đang rộn lên ở Mỹ và tình hình càng trở nên nghiêm
trọng hơn khi vào cuối năm 1974 thì quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua đạo
luật chấm dứt viện trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam; đồng nghĩa với
việc Hoa Kỳ hoàn toàn không còn thể làm điều gì để trợ giúp miền Nam
Việt Nam khi CS Bắc Việt họ vi phạm vào hiệp ước Paris nữa. Chân Như: Nếu như thời gian quay ngược trở lại, giả sử các
bên đều tuân thủ các Hiệp định, thì các bạn thử hình dung đất nước Việt
Nam ngày nay sẽ ra sao? Catherine Nguyễn: Theo em nghĩ giả sử như lúc đó 2 bên
đều tôn trọng hiệp định thì có 2 khả năng xảy ra. Một là nước
Việt Nam sẽ thống nhất như nước Đức. Hai là nếu các lãnh đạo
miền bắc thời đó còn coi trọng cái ghế quyền lực thì nước
Việt Nam sẽ giống như Triều Tiên. Tuy nhiên, theo em thì giả sử
như đất nước đến nay mà vẫn còn bị chia đôi thì mình tương lai
Việt Nam vẫn sẽ thống nhất như nước Đức chứ phe miền Bắc không
thể dùng chiến tranh vũ trang để thống nhất được nữa. Minh Hiển: Theo em thì để trả lời điều này thì phải cần rất
nhiều các điều khác nữa, do vậy xin cho phép em được để ngõ câu trả lời
của mình ở câu hỏi này.
Trường Sơn: Đây là một giả thuyết không có thật bởi vì chúng ta đều
biết rằng bản hiệp định đã không được tôn trọng và đã bị xé toạc một
cách trắng trợn. Nó chỉ là một giả thuyết vui. Theo suy nghĩ cá nhân của
em, nếu thực sự hai bên cam kết và tuân thủ hiệp định này thì khả năng
lớn nhất đó là nước chúng ta sẽ giống như Bắc Triều Tiên và Nam Triều
Tiên. Chân Như: Xin cám ơn ba bạn Catherine Nguyễn, Minh Hiển và Trường Sơn đã dành thời gian chia sẻ cho đề tài này.
________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét