Phạm Hồng Sơn
Đừng để người ta cười (phần 1)Hổ thẹn
Tôi đồ rằng những vị như Tiến sỹ Nguyễn Nhã, Thạc sỹ Hoàng Việt hay Giáo sư Cao Huy Thuần chưa đọc kỹ hai văn bản này: (1) Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (2) Công hàm ngày 14/9/1958 của chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa thuộc chính thể Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Theo tôi, bất cứ ai có trí tuệ bình thường đã đọc kỹ hai văn bản này và là người có lòng công bằng, bất thiên vị, vẫn thừa nhận tính chính đáng của chính thể cộng sản Việt Nam đều phải công nhận:
Hoàng Sa, Trường Sa cùng những chủ quyền liên quan theo luật quốc tế hiện nay là thuộc Trung Cộng – tức Trung Hoa cộng sản, quốc gia vừa từng là “anh em răng môi”, vừa vẫn là “bạn vàng bốn tốt”, “đối tác chiến lược toàn diện” của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam (tức Đảng Lao động Việt Nam vào lúc Công hàm của chính thể Hồ Chí Minh được công bố – chính thể Việt Nam hợp pháp duy nhất từ năm 1945 tới nay dưới nhãn quan của Đảng Cộng sản Việt Nam.)
Bởi vì:
-Một: Ta không thể tự mâu thuẫn khi vẫn thừa nhận tính chính đáng, tính đại diện của một nhà nước, một chính phủ lại vừa phủ nhận hành động của nhà nước đó, chính phủ đó khi tự xác định “có trách nhiệm tôn trọng triệt để” tuyên bố công khai của một chính phủ khác khi chúng ta đã hoàn toàn im lặng vào lúc cam kết đó được lập nên.
-Hai: Việc cố diễn giải nhằm bác bỏ tính ràng buộc của một cam kết (có tính khế ước) của một tổ chức mà ta thừa nhận tính chính đáng của nó, và khế ước đó còn tiếp tục được minh định thêm nhiều lần khác, bằng nhiều cách khác của chính tổ chức đó, không chỉ là sự ngạo ngược với tinh thần Pháp trị phương Tây, phỉ báng chữ Tín phương Đông.
-Ba: Người còn liêm sỷ không thể vẫn coi một chính thể là “Ngụy” – tức bác bỏ tính chính đáng của chính thể đó – nhưng lại dùng những phát ngôn, hành động của chính chính thể (bị coi là) “ngụy” đó để biện hộ cho sự “chính đáng” của bản thân.
Tất nhiên, cứ có kẻ cầm quyền thì có biện sỹ – những người nhiều kiến thức, giỏi biện luận, chuyên phò tá kẻ quyền thế để mưu bổng tước bất chấp đúng sai, đức nghĩa. Tuy nhiên cái lý trí cùng đạo đức sơ đẳng của con người đều phải biết không thể nào tuyên bố chấp nhận một toàn thể, rồi sau đó lại phủ nhận phần tử của cái toàn thể đó; người ta cũng không thể kiện, không thể đòi lại vật đã bán, đã cho bằng việc nại ra những hình ảnh về sở hữu vật đó trước khi bán hay cho. Những kiểu lý luận này chỉ là lối biện luận phi logic một cách ngang ngược mà dân gian đã đặt tên: cãi chày cối lấy được.
Biện sỹ là nghề đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm nay cả ở Đông lẫn Tây, sự sai lầm của con người càng không mới, nhưng đến thời này mà chúng ta vẫn thấy hạng biện sỹ đó còn đất dụng võ thì thật kỳ lạ, lối biện luận đó ta lại thấy ở những danh sỹ khoa bảng thì thật hãi hùng.
Vô ơn
Nhìn vào quan hệ của hai chính thể cộng sản Việt, Trung, ngoại trừ một giai đoạn khoảng hơn 10 năm (1979-1990), người ta không thể không thấy bao trùm lên quan hệ đó là sự gắn bó thân tình đặc biệt của hai nước láng giềng và Trung Cộng là bên đã giúp đỡ rất nhiều cho Việt Nam cộng sản. Ngắn gọn có thể nói, mỗi thành tựu quan trọng của chính thể Việt Nam cộng sản trước năm 1990 đều không thể thiếu sự trợ giúp của Trung Cộng.
Tư trang, quân dụng cho tất cả những người lính miền Bắc vào những thời kỳ đó, đặc biệt trong cuộc “kháng chiến chống Mỹ-Ngụy”, từ lính tới tướng, từ đầu tới chân, từ trong ra ngoài, cho tới cái ba-lô, bi-đông, lương khô, thuốc tăng lực, v.v. đều của Trung Hoa. Tình hữu nghị Việt-Trung còn được hiện thân vào những ca từ , những điệp khúc thiết tha, hào hùng: “Việt Nam, Trung Hoa núi liền núi sông liền sông, chung một biển Đông với tình hữu nghị sáng như rạng đông…Nhân dân ta ca muôn năm Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông. Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông.”
Ngay năm 1979, giữa lúc quan hệ hai đảng xuống tới mức thấp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ:
“Năm 1950, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trung Quốc là nước viện trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất cho Việt Nam trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp…Nhân dân Trung Quốc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược… những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung Quốc viện trợ cho nước Việt Nam, thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở Điện Biên Phủ”, v.v… “.[i] (tôi-PHS nhấn mạnh những chỗ tô đậm)
Đó chỉ là góc nhìn hẹp từ phía Việt Nam. Vậy, một người Trung Hoa dân tộc chủ nghĩa sẽ nghĩ gì về những người Việt Nam hôm nay vừa ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam vừa bác bỏ Công hàm Hồ Chí Minh 1958, vừa lớn tiếng hô hoán cáo buộc Trung Cộng xâm lấn Hoàng Sa, Trường Sa?
Nguy hiểm
Như đã thấy, nếu căn cứ vào lý, tức đưa vụ việc ra kiện tụng, chắc chắn Trung Hoa cộng sản (Trung Cộng) sẽ có lý hơn – tức sẽ thắng Việt Nam (cộng sản). Còn nếu tranh cãi cứ tiếp tục leo thang, kể cả chỉ bằng phương pháp chính trị-ngoại giao và không phải là đóng kịch, nguy cơ xung đột quân sự vẫn rất có thể xảy ra. “Chiến tranh chỉ là sự tiếp tục của một chính sách chính trị bằng một phương tiện khác thôi.” (Clausewitz)[ii]
Chưa kể, hai chính thể toàn trị cộng sản Việt và Trung đều có những nhu cầu tự thân trong việc cải hóa tính chính đáng đang có chiều sa sút. Mà chiến tranh luôn là một vị có thể phải gia thêm trong thang thuốc bốc cho độc tài bất an.
Tuy nhiên, dù chưa bàn đến chênh lệch sức mạnh giữa hai quốc gia cũng như các yếu tố quốc tế, một cuộc chiến trên những cơ sở như thế, dù ở mức độ nào, chắc chắn không thể mang lại được ích lợi gì cho dân Việt Nam, ngoại trừ kẻ chuyên quyền.
Như vậy bất kỳ ai vừa thừa nhận tính chính đáng của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) lại vừa cố đòi chủ quyền Biển Đông liên quan tới Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, họ vừa không chỉ tự mâu thuẫn, chống lại công lý mà còn có nguy cơ đẩy xung đột đi tới chỗ chém giết lẫn nhau, tai hại thêm cho lợi ích quốc gia của chính Việt Nam. Còn nếu tranh cãi chỉ dừng ở kiện tụng, đó cũng sẽ là những cuộc kiện tụng tốn kém tiền bạc, công sức của dân với một phán quyết gần như chắc chắn: Việt Nam (cộng sản) ít lý hơn.
Xấu hơn
Với lòng tự tôn dân tộc chúng ta có thể vẫn không tin, không chấp nhận thực trạng u ám trên đây. Nhưng sự thật tồn tại đâu cần sự đồng ý của chúng ta. Những văn bản, luận cứ bất lợi cho chủ quyền Việt Nam, như đã biết hoặc chưa biết, có thể đều đang nằm trong tay chính quyền Trung Cộng.
Cũng trong sách đã dẫn, tháng 10/1979 Đảng Cộng sản Việt Nam tiết lộ thế này:
“Những người cầm quyền Trung Quốc đã nhận ngồi vào đàm phán với phía Việt Nam… Mặt khác họ đặt điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải từ bỏ đường lối độc lập, tự chủ của mình, từ bỏ chủ quyền của mình đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì họ mới đi vào bàn bạc các vấn đề khác.”[iii] (tôi nhấn mạnh chỗ tô đậm)
Một dấu hỏi: Hội nghị Thành Đô 1990 chỉ là bước kế tiếp sau “điều kiện tiên quyết” vừa nói đã được thỏa mãn? Không ai có thể trả lời được nghi vấn này, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Cộng. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết một chi tiết khác:
“…Không có gì đáng ngạc nhiên là họ đã khước từ một hiệp định quân sự bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo hiệp định này về nguyên tắc đến tháng 6 năm 1965, phía Trung Quốc phải gửi phi công sang giúp Việt Nam. Nhưng…”[iv] (tôi nhấn mạnh chỗ tô đậm)
Như thế, không thể loại trừ Trung Cộng đã thủ đắc nhiều chứng cứ khác kiểu “Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng” (sic)?
Vụ bạo động xảy ra một cách bất ngờ trong mấy ngày liên tiếp ở Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Áng trong tháng Năm vừa qua còn cho thấy một viễn cảnh xấu hơn. Dù nguyên nhân gốc từ đâu, như một số nhà phân tích đã nêu, do tình báo Trung Cộng giật dây hay do chính quyền Việt Nam cố tình tạo ra để lấy cớ dẹp biểu tình, chúng đều chỉ rõ: hoặc Việt Nam đã bị Trung Cộng thâm nhập, kiểm soát rất sâu tới mức chính quyền bất lực, hoặc chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam rất sắt máu với dân – sẵn sàng chịu một tổn thất không nhỏ cả về kinh tế lẫn chính trị (đối ngoại) để có cớ phòng và đè bẹp những nhen nhúm dân chủ đối lập còn rất nhỏ và yếu.
Vô âm
Vấn đề Biển Đông trong những năm qua cho thấy chủ nghĩa dân tộc kém tỉnh táo ở Việt Nam vẫn rất mạnh.
Khi vụ Giàn khoan HD198 xảy ra, khi báo đài của Đảng mới đổi giọng cao lên một chút, đã có nhiều người bày tỏ sẵn sàng vác súng ra trận bất biết đó sẽ là cuộc chiến vệ quốc hay lại vệ đảng (?).
Chỉ bằng một phát biểu có tính dân tộc chủ nghĩa, một ông thủ tướng bạo quyền đã rất nổi tiếng về hứa đẹp và chỉ hứa đẹp vẫn làm chao đảo dư luận, vẫn làm nhiều thức giả ngưỡng mộ, kỳ vọng ngất ngây.
Quá lo lắng cho quyền lợi dân tộc Việt đã khiến cả những người có trí tuệ không tầm thường chấp nhận một khẩu hiệu có nhân sinh quan cạn hẹp dễ khích động tha nhân: “Thoát Trung”.
Nhưng chủ nghĩa dân tộc không phải là thứ có thể độc quyền. Những người Hoa dân tộc chủ nghĩa quá khích chắc chắn không thể không thấy những phản ứng kể trên của người Việt. Họ cũng không thể không thấy những hiện tượng lạ lùng khác: Truyền thông nhà nước gọi nhân sỹ, trí thức đi biểu tình là “phản động”; người của Đảng đi biểu tình bị đạp mặt; những nhân vật như Lê Chí Quang vẫn trong vòng kiểm soát, Điếu Cày còn gần chục năm tù, Anh Ba Sàm chắc sẽ phải tù lâu, còn Bùi Hằng “hoa hậu biểu tình” sắp hầu tòa, v.v.
Quan sát như thế và lại nghe thấy “Thoát Trung”, những người Trung Hoa dân tộc chủ nghĩa không thể không nộ khí:
“Chúng mày đang bị chính chúng mày trói chân, trói cả tay cả đầu, thế mà vẫn còn hùng hổ ‘Thoát Trung’. Ai cho thoát? Thoát đi đâu? Ngàn đời còn khổ các con ạ!”
Đó có thể là tưởng tượng phóng đại, quá khích, ác khẩu. Nhưng không thể lấy một chủ nghĩa dân tộc mù quáng để chống lại một chủ nghĩa dân tộc (lớn hơn nhiều) cũng mù quáng. Không thể tìm kiếm công lý, an bình cho dân tộc mình bằng sự trí trá, chà đạp một công lý khác.
Luồn vào chính sách uốn éo của cường quyền lệ thuộc phản trắc để đối phó với xâm lăng sẽ vừa vô ích, vừa rót thêm hoang mang vào lầm than của dân chúng, vừa dễ mắc bẫy, lại vừa bị người ta cười. Tất nhiên, không ai cười thành tiếng.
-Việt Nam phải câm lặng, chịu mất Biển Đông?- ○
(Còn tiếp)
Bài đọc thêm:
- Giàn khoan Trụ đồng – điều kiện của hy sinh
- Vài phản biện về bài “Thoát Trung Luận”
[i] Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, 10/1979, trang 28, 98, 101.
[ii] Triết gia quân sự Carl von Clausewitz (1780-1831) đã phát biểu (được dịch ra Anh ngữ): “War is the continuation of policy by other means. It is not only a political act, but also a true political instrument.”, Martina Sprague, Lessons in the art of war, Tuttle Publishing, 2011, trang 06.
[iii] Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, 10/1979, trang 94.
[iv] Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, 10/1979, trang 47.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét