Mỹ khiến TQ hiếu chiến hơn ở Biển Đông?
Khi Tổng thống Obama tuyên bố quần đảo Senkaku nằm trong diện bảo hộ của Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật, Trung Quốc đã rút lui và căng thẳng hạ nhiệt. Vấn đề là ở Biển Đông đang thiếu vắng một cấu trúc cho phép các bên có thể phán định được đâu là giới hạn không nên bước qua, từ đó ngăn chặn những toan tính sai lầm – cựu Đại sứ Mỹ tại Đức nhận định.
LTS:VietNamNet trân trọng giới thiệu phần 2 cuộc bàn tròn với chủ đề: Sự trỗi dậy của Trung Quốc và lựa chọn cho Việt Nam.
Từ trái qua phải: TS Nguyễn Hùng Sơn, Đại sứ Bindenagel và Nhà báo Việt Lâm
Vai trò của Mỹ
Nhà báo Việt Lâm: Chúng ta đã phân
tích các khía cạnh liên quan đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong một
cục diện mới đang hình thành hiện nay thì Mỹ có vai trò như thế nào?
Đại sứ Bindenagel: Tôi cho rằng có một sự
hiểu lầm cơ bản về vai trò của Mỹ trong cách nhìn nhận của Trung Quốc,
hay thậm chí của một số nước láng giềng. Điều này dường như đang thay
đổi sau khi Trung Quốc trở nên hiếu chiến hơn. Câu hỏi dành cho Mỹ là
liệu Mỹ có thể đóng vai trò gì khi Trung Quốc trỗi dậy?
Trước tiên, phải nói rằng những cuộc chiến tranh trên bộ,
như chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên là câu chuyện thời Chiến tranh
Lạnh. Và Chiến tranh Lạnh đã qua được 25 năm rồi. Nhiều nhà phân tích
khi nhìn vào Mỹ thường hay nói rằng Mỹ vẫn đang tiếp tục Chiến tranh
Lạnh. Điều đó hoàn toàn sai. Chúng tôi không làm như vậy. Kiểu tư duy
Chiến tranh Lạnh đã kết thúc nhưng Mỹ vẫn phải đóng vai trò ở khu vực
này. Bởi vì trước hết, chúng tôi là một cường quốc Thái Bình Dương, cho
nên chúng tôi có mọi quyền để hiện diện ở đây. Những gì mà Mỹ đang cố
gắng thực hiện là đảm bảo ổn định khu vực.
Tôi muốn làm một so sánh với kinh nghiệm của Châu Âu. Sau
Chiến tranh Thế giới thứ hai, Mỹ nhanh chóng rút khỏi châu Âu. Sau đó Mỹ
bị Liên Xô thách thức và phải quay trở lại. Vì vậy, Mỹ đã quay lại châu
Âu với tư duy Chiến tranh Lạnh nhằm kiềm tỏa Liên Xô. Tuy nhiên, Mỹ
cũng triển khai một số chiến lược khá tương đồng với cuộc tranh luận
hiện nay ở khu vực. Chúng tôi đỡ đầu cho Cộng đồng Than Thép. Ý tưởng
này nhằm tạo dựng tình hữu nghị giữa Đức với các nước láng giềng, một
quốc gia đã có tới 20 cuộc chiến tranh với các nước xung quanh trong
vòng 200 năm qua. Những thành viên của cộng đồng này là kẻ thù cũ và họ
không có cách nào bước qua quá khứ hận thù cho đến khi họ đề xuất ý
tưởng về chia sẻ tài nguyên chung. Đó là nền tảng của Cộng đồng Than
Thép, hai loại tài nguyên đã từng gây ra chiến tranh. Nhờ mô hình này mà
suốt hơn 70 năm qua các nước châu Âu đã cùng tồn tại hòa bình. Mặc dù
có xảy ra một số cuộc xung đột quân sự ở ngoại vi, như ở Slovenia hay ở
Ukraine hiện nay nhưng khu vực ngoại vi này nằm ngoài mối quan hệ chia
sẻ thị trường chung, hoạt động chung, phát triển tài nguyên và hợp tác
chính trị hiện nay trong EU.
Rõ ràng kinh nghiệm từ EU có thể cung cấp cho chúng ta một
cách thức tiếp cận để giải quyết căng thẳng hiện nay ở châu Á – Thái
Bình Dương. Vai trò của Mỹ ở Châu Âu cũng là vai trò mà chúng tôi muốn ở
châu Á. Đó là đem các bên ngồi lại với nhau, hợp tác với nhau và nỗ lực
đảm bảo rằng sẽ không có xung đột xảy ra.
Vấn đề là Mỹ có thể dựa vào cấu trúc nào ở châu Á- Thái
Bình Dương? Liệu Mỹ có thể khuyến khích sự hình thành của một cấu trúc
tương tự như Cộng đồng Than-Thép ở châu Âu hay không? Ở Biển Đông các
nước có nhiều lĩnh vực có thể hợp tác với nhau, như đánh bắt cá, thăm dò
và khai thác dầu khí…Tôi được biết Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa
thuận cùng hợp tác khai thác tài nguyên chung trên vịnh Bắc Bộ. Đấy là
một dẫn chứng cho thấy có những chỗ mà Trung Quốc có thể sẵn lòng phát
triển một mối quan hệ có lợi cho cả hai bên mà không cần phải tỏ ra hung
hăng hay lấn lướt đối phương. Tôi tin rằng chính phủ Mỹ đang cân nhắc
đến những sáng kiến tương tự.
Nhà báo Việt Lâm: Một bạn đọc gửi câu
hỏi tới Đại sứ Bindenagel. Ông có nghĩ rằng chính vì cách ứng xử mềm yếu
của Mỹ đối với Trung Quốc đã khuyến khích Trung Quốc hành động quyết
đoán hơn hay không?
Đại sứ Bindenagel: Tôi nghĩ rằng đây là
một câu hỏi hay. Tôi sẽ nói ngay là không phải như vậy. Bởi vì xét trên
khía cạnh cấu trúc thì Mỹ có hiệp ước an ninh song phương với Nhật Bản
và Hàn Quốc. Những thỏa thuận này cung cấp một cấu trúc mà dựa vào đó
Trung Quốc có thể phán đoán được phản ứng của Mỹ sẽ là gì nếu họ đối đầu
với hai nước này. Dẫn chứng tôi đã nhắc tới là quần đảo Senkaku. Khi
Trung Quốc tuyên bố thiết lập Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ), lực
lượng Phòng vệ Nhật Bản đã cử máy bay đến khu vực này để thách thức
Trung Quốc. Tình hình trở nên bất ổn và nguy hiểm cho đến khi Tổng thống
Obama có chuyến công du đến Nhật hồi tháng Tư và tuyên bố quần đảo
Senkaku thuộc diện bảo hộ của Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật. Sau đó, Trung
Quốc đã rút lui.
Vấn đề là đang thiếu vắng một cấu trúc cho phép tìm kiếm
các giải pháp cho xung đột ở Biển Đông mà dựa vào cấu trúc đó có thể đưa
ra phán định đâu là ranh giới và hành động nào được coi là khiêu khích.
Liệu một cấu trúc như vậy có thể xoay quanh ASEAN khi mà ASEAN phát
triển hay không? Hay là một cấu trúc sinh ra từ Hội nghị Thượng đỉnh
Đông Á?
Một số người ở Mỹ đề xuất rằng Mỹ nên trở thành một đối tác
chiến lược của Việt Nam để chống lại Trung Quốc. Đó không phải là một
cách tiếp cận sáng suốt. Ngược lại, nó chỉ gây them đối đầu mà không đi
tới giải pháp nào cả. Do đó, câu hỏi thực sự cần đặt ra là cấu trúc nào
sẽ có tính khả thi để đảm bảo cho hai phía không tính toán sai, để họ có
thể hiểu được đâu là giới hạn không nên bước qua.
TS Nguyễn Hùng Sơn: Tôi chia sẻ với câu
hỏi của độc giả. Tôi nghĩ rằng Mỹ có vai trò chủ chốt trong việc duy trì
hòa bình và ổn định ở khu vực này. Người ta có thể lập luận từ hai góc
nhìn ngược chiều nhau rằng chính sự suy yếu của Mỹ đã khuyến khích Trung
Quốc trở nên quyết đoán hơn hoặc ngược lại chính sự mạnh tay của Mỹ đã
thôi thúc Trung Quốc phải hành xử quyết đoán.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đang có một sự mơ hồ dẫn đến nhận
thức sai lầm trong nội bộ Trung Quốc, từ đó dẫn đến Trung Quốc có những
tính toán sai và hành động không chính đáng. Tôi đồng ý với quan điểm
của Đại sứ Bindenagel về sự cần thiết phải có một cấu trúc song cấu trúc
này phải làm rõ những mập mờ hiện nay và đảm bảo ổn định ở khu vực. Tôi
thấy một trong những việc mà ASEAN đang làm cho khu vực là tạo ra sự
minh bạch trong khu vực. Chúng tôi diễn giải và tường minh ý đồ và mục
tiêu của các bên trong khu vực, đưa các bên ngồi lại để tránh hiểu lầm.
Bởi vì hiểu lầm có thể dẫn đến tính toán sai và tính toán sai đôi khi sẽ
vô cùng nguy hiểm về mặt chiến lược. Đó là vai trò của cấu trúc đó và
cũng chính là vai trò của ASEAN ở khu vực.
TQ hung hăng dùng vòi rồng tấn công tàu VN. Ảnh: Hoàng Sang |
Các đế chế có thể sụp đổ vì toan tính sai lầm
Đại sứ Bindenagel: Tôi muốn nhấn mạnh vào
luận điểm mà TS Sơn vừa trình bày, đó là sự tính toán sai lầm. Bài học
từ Chiến tranh Thế giới thứ nhất cho thấy để tránh chiến tranh thì yếu
tố có vai trò cốt tử là các nhà lãnh đạo các quốc gia không được có phán
đoán hay tính toán sai lầm về những gì đang diễn ra. Những gì chúng ta
đang bàn thảo ở đây cũng là tìm ra cách thức nào để có thể hiểu được
điều gì đang thực sự diễn ra. Liệu rằng sự kiện giàn khoan là sáng kiến
của một nhóm lợi ích nào đó, hay nó được thúc đẩy bởi các nhà lãnh đạo ở
Bắc Kinh? Câu trả lời sẽ dẫn đến hai kết quả và hai cách giải quyết rất
khác nhau. Bạn có thể phản đối giàn khoan hoặc bạn có thể phản đối
Trung Quốc. Ý tôi là phản đối vụ việc hay phản đối cả một quốc gia.
Hãy nhớ lại thảm họa đối với cả châu Âu khi chiến tranh
bùng phát năm 1914 do đế chế Nga Sa hoàng, đế chế Áo-Hung, đế chế
Otoman sụp đổ. Bài học lịch sử cho thấy, các đế chế có thể suy vong do
những toan tính sai lầm.
Nhà báo Việt Lâm: Từ những gì mà Đại
sứ và Tiến sỹ Sơn vừa phân tích, có thể suy ra rằng nguy cơ chính là
lãnh đạo và các nhóm lợi ích ở Trung Quốc đánh giá quá cao quyền lực và
sức mạnh của họ trong khi lại đánh giá quá thấp phản ứng từ cộng đồng
quốc tế?
Đại sứ Bindenagel: Điều đó hoàn toàn đúng.
Hãy xem xét vai trò của Mỹ ở đây. Tôi lấy một ví dụ liên quan đến nhận
thức của Trung Quốc về vai trò của Mỹ trong khu vực. Khi Mỹ quyết định
gửi một số ít quân đến Australia, động thái đó đã bị xem là khiêu khích.
Trong khi đối với chúng tôi, hành động này hoàn toàn không có mục đích
khiêu khích gì cả. Chúng tôi chỉ đơn thuần hiện diện tại đây để có thể
đảm bảo tự do giao thương hàng hải và duy trì trật tự quốc tế vì sự
thịnh vượng mà khu vực đã đạt được từ thương mại.
Ngoài ra, còn có một loạt các vấn đề khác mà Mỹ không hề
muốn khiêu khích ai nhưng vẫn bị buộc tội là khiêu khích. Rõ ràng đang
tồn tại một nhận thức sai từ phía bên kia.
Có hay không một liên minh Trung – Nga?
Nhà báo Việt Lâm: Xin được chuyển sang
chủ đề khá nóng gần đây là sự hình thành các liên minh trong khu vực
liên quan đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Độc giả Thu Hà có câu hỏi dành
cho hai vị khách mời: Mới đây Trung Quốc và Nga đã ký hợp đồng khí đốt
khổng lồ, theo đó Trung Quốc sẽ trở thành đồng minh chính của Nga. Trên
nhiều vấn đề khác, người ta cũng thấy Nga chia sẻ quan điểm chung với
Trung Quốc. Theo các ông, liệu một liên minh Trung – Nga có tái xuất
hiện hay không. Tính bền vững của liên minh nếu có này sẽ như thế nào và
tác động ra sao đến cán cân quyền lực ở châu Á – Thái Bình Dương?
TS Nguyễn Hùng Sơn: Tôi khá do dự khi phải
dùng từ liên minh, một thuật ngữ mang hơi hướm của thời kỳ Chiến tranh
Lạnh. Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, nơi mà ngày
càng có nhiều hợp tác giữa các quốc gia. Tuy nhiên, bản chất của các mối
quan hệ hợp tác này hoàn toàn khác xa thời Chiến tranh Lạnh. Khi các
nước hình thành một liên minh, họ có thể đồng ý với nhau và hợp tác về
mọi vấn đề. Những mối quan hệ hợp tác này hình thành dựa trên các vấn đề
và trong khi các nước tăng cường hợp tác trong một lĩnh vực nào đấy thì
đồng thời họ có thể bất đồng hoặc cạnh tranh với nhau ở các lĩnh vực
khác. Đó là bản chất của các quan hệ quốc tế ngày nay.
Do vậy, chúng ta nên thoát khỏi lối nghĩ về các liên minh
hình thành dựa trên ý thức hệ giống như thời Chiến tranh Lạnh. Điều đó
có nghĩa rằng hợp tác dầu khí Trung-Nga vừa qua là một diễn biến quan
trọng về địa chính trị bởi một mặt thỏa thuận này làm gia tăng mức độ
phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung Quốc và Nga. Mặt khác, nó gây ra cảm tưởng
rằng hai nước này đang liên minh với nhau để chống lại sự hình thành
của một liên minh khác, tạo ra một ấn tượng của thời kỳ Chiến tranh Lạnh
trong quan hệ quốc tế. Điều nguy hiểm là nó có thể gửi một thông điệp
sai lầm đến các nước khác, khiến cho họ phải lựa chọn đứng về bên nào,
hay phải nêu lập trường mà vốn họ không cần phải làm vậy. Vì lẽ đó, tôi
nghĩ chúng ta nên cẩn thận và không diễn giải quá mức những diễn biến
này.
Đại sứ Bindenagel: Tôi hoàn toàn đồng ý
với anh Sơn. Theo tôi, thỏa thuận cung cấp khí đốt là một thỏa thuận
kinh tế. Và nếu tôi xem xét nó dưới góc độ kinh tế, tôi sẽ nói rằng thỏa
thuận này rất có lợi cho Trung Quốc. Đó là bởi vì Nga đang cần tìm kiếm
các nguồn cung khí đốt thay thế nhằm duy trì sự ổn định cho nền kinh tế
của họ.
Tuy nhiên, tôi không cho rằng đó là một thỏa thuận chiến
lược gì cả. Nó là một thắng lợi của Trung Quốc, vì thế cán cân mối quan
hệ đang nghiêng về phía nước này. Hiển nhiên là ông Putin cần có một
tuyên bố chính trị rằng ông ấy có lựa chọn thay thế đối với EU trong bối
cảnh phải đối mặt với sự trừng phạt của phương Tây. Đây là một sự cân
bằng mang tính đánh đổi.
Một lần nữa, tôi đồng ý rằng cần phải hết sức điềm tĩnh xem
xét vấn đề để không tính toán sai. Chiến tranh Lạnh đã qua lâu rồi. Một
số người nói rằng Putin đang làm hồi sinh thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Đúng là ông ấy muốn đưa nước Nga vươn dậy một lần nữa. Nhưng bây giờ
không phải là Chiến tranh Lạnh, không phải là xung đột dựa trên ý thức
hệ như xưa nữa. Chúng ta đã chứng kiến những thay đổi thực sự khác biệt
đã diễn ra suốt 25 năm qua kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt. Thời kỳ
hậu Chiến tranh Lạnh được xây dựng dựa trên nguyên tắc duy trì các tiến
trình và chuẩn mực. Một trong những luật chơi mà các nước đều phải tôn
trọng là không ai được phép dùng vũ lực để xê dịch các biên giới. Việc
ông Putin đã làm với Crimea là một thách thức nghiêm trọng. Và đó cũng
là một tín hiệu rất xấu cho Đông Á, cả Đông Bắc và Đông Nam Á. Bởi vì
nếu điều đó trở thành luật chơi quốc tế, rằng họ có thể dùng vũ lực để
thay đổi các đường biên giới, chúng ta sẽ đối diện với một thế giới hoàn
toàn khác.
Bởi vậy, thách thức hiện tại là làm sao bảo vệ được chuẩn
mực quốc tế rằng các đường biên không được phép thay đổi bằng vũ lực. Đó
phải là nguyên tắc số một ở Biển Đông. Ở đây phải không có chỗ cho
những thay đổi dựa trên vũ lực. Các nước có thể đàm phán với nhau, các
nước có thể ở vị thế mạnh hơn hay yếu hơn, nhưng ít nhất thì theo quan
điểm của tôi, và tôi cũng tin rằng đó là lập trường của chính phủ Mỹ
rằng vũ lực là điều không thể chấp nhận được.
(Còn tiếp)
- VietNamNet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét