Tuy thị lực “gần như bằng 0”, nhưng đầu óc Mao vẫn rất tỉnh táo, sắc sảo, tay Mao vẫn nắm chặt quân đội. Bởi quân đội là điều kiện “ắt có” để khai sinh và bảo vệ chế độ của Mao – như Mao từng tuyên ngôn: “Chính quyền vươn lên từ nòng súng”!
Một thế giới
Ảnh
và chú thích của Tư liệu VNCH tháng 3.1974: Tuần dương hạm Lý Thường
Kiệt HQ.16 từ Hoàng Sa trở về trong sự reo mừng của hàng ngàn người dân
Việt Nam đang đón chờ
Đời Mao, có 600 ngày phải chìm trong bóng tối bởi mắt bị mờ
dần, rồi không nhìn thấy hẳn – bất hạnh đó đến liền ngay sau những ngày
đầu Mao “đụng tới” Hoàng Sa…
Cuối tháng 1.1974, mắt Mao bỗng nhiên nhòa hẳn. Khoảng mươi mười
lăm thước Mao thấy một người dường như “có hai ba”. Dụi mắt xong, lại
thấy một người “có đến bốn năm”, rồi “sáu bảy” – tựa hồ “bóng người âm”
vậy. Dần dà, Mao không thể tự xem sách báo, ngay cả khi đọc các văn
kiện nếu phải viết lời phê thì “cũng phải nhờ người khác viết thay
(…) cũng không thể thấy mặt những người quen thuộc xung quanh, thậm chí
ngay cả người đi qua sát mặt, Chủ tịch cũng không nhìn rõ” (Trần Trường Giang, sđd ở Kỳ 8, tr. 325).
Các chuyên gia nhãn khoa hàng đầu của Trung Quốc chẩn đoán và thông
báo Mao bị “đục thủy tinh thể” cả hai mắt, buộc phải phẫu thuật. Nhưng
chưa thể phẫu thuật ngay, vì dạng “mù mắt” của Mao phải đợi đến giai
đoạn phát bệnh hoàn toàn mới can thiệp “bằng dao kéo” được. Nên, Mao
phải “tiếp tục chờ đợi trong mấy trăm ngày dài u tối” nữa – Bệnh càng nặng, đến nỗi Mao “bị mù hoàn toàn, hai chân bị phù thủng, nếu không có người dìu thì không thể đi lại được” (Trần Trường Giang, sđd, tr. 332).
Mao không cho nói với bất kỳ ai khác về chuyện Mao “không nhìn
được” ngoài các nhân viên, thư ký, bác sĩ phải làm việc cạnh Mao hàng
ngày, kể cả Bộ Chính trị cũng chỉ có Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình với vài
ủy viên nữa biết.
Tuy thị lực “gần như bằng 0”, nhưng đầu óc Mao vẫn rất
tỉnh táo, sắc sảo, tay Mao vẫn nắm chặt quân đội. Bởi quân đội là điều
kiện “ắt có” để khai sinh và bảo vệ chế độ của Mao – như Mao từng tuyên
ngôn: “Chính quyền vươn lên từ nòng súng”!
Ngón tay Mao độc quyền đặt lên cò súng “quốc gia”, bởi Mao không
nhường cho ai vị trí Chủ tịch Quân ủy trung ương. Mao biết, nếu rời vị
trí ấy Mao có thể đã bị Lâm Bưu thanh toán. Trong quá khứ, Lâm Bưu không
thể ra tay được, do quyền điều động quân đội tập trung trong tay Mao,
Bắc Kinh nghiêm ngặt tới mức “điều động một trung đội cũng phải được
Mao phê chuẩn – Lâm Bưu là Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng cũng không được điều động một trung đội. Tổng tham mưu trưởng
Hoàng Vĩnh Thắng trở xuống càng không có quyền ấy” – theo Tân Tử Lăng.
Vậy nên, Lâm Bưu không thể dùng bộ binh đánh ngược Mao. Dầu Hoàng
Vĩnh Thắng thuộc vây cánh Lâm, Thắng vẫn không dám phiêu lưu tự ý cầm
quân qua cửa ngõ thành phố lấy nửa bước, đừng nói tới “vẫy tay vung đạn”
vào Trung Nam Hải ! Lâm Bưu kế cùng, muốn qua Vương Phi (Phó Tổng tham
mưu trưởng Không quân) để “tạm mượn” tiểu đoàn cảnh vệ trực thuộc Bộ Tư
lệnh Không quân bất ngờ đánh vào Điếu Ngư Đài – theo dự kiến. Không may,
giờ chót: lực lượng không quân thân Lâm Bưu bị Chu Ân Lai khống chế, vô
hiệu hóa, cả nhà Lâm đành lao vào “đường bay tuyệt mệnh”!.
Cũng ở vị trí Chủ tịch Quân ủy trung ương, Mao điều hơn 40 chiến
hạm đến vùng biển Việt Nam làm “tấm lá chắn”cho quần đảo Hoàng Sa sau
ngày đánh chiếm (chúng tôi sẽ trở lại “sự kiện Hoàng Sa” trong phần viết
về quần đảo Trường Sa ở đoạn sau của loạt bài này).
Trước ngày “bùng nổ Hoàng Sa”, Quân ủy trung ương của Mao soạn thảo
một văn kiện tuyệt mật chống phá Việt Nam, lưu hành nội bộ, bị tiết lộ
bởi gián điệp Trung Quốc Lê Xuân Thành (người Quảng Đông, được Bắc Kinh
tung vào Việt Nam hoạt động và bị bắt tại Quảng Bình ngày 30.3.1973).
Văn kiện có đoạn: “Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hận thù
dân tộc hàng nghìn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân
chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng
ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh,
không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài
chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta
phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta…” (theo văn kiện của Bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” công bố 4.10.1979 – Phần thứ tư).
Nhìn về quá khứ, quan hệ “bất bình đẳng” giữa Việt Nam – Trung Quốc
đã xảy ra qua đàm phán Geneva 1954. Điều đó, bạn đọc có thể tìm hiểu
sâu hơn qua bài viết của Thảo Nguyên “Cố TBT Lê Duẩn: Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc !” (Báo điện tử Một Thế Giới 8.7.2014) - trích tham khảo một đoạn (do thư ký của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là ông Việt Phương kể) :
“Khi bàn thảo về Hiệp định Geneva, Bộ Chính trị của ta chỉ đồng
ý lấy vĩ tuyến 16 là ranh giới cuối cùng của khu phi quân sự tạm thời
giữa hai miền Nam – Bắc trong thời gian chờ tổng tuyển cử. Nhưng Trung
Quốc với sự ảnh hưởng của mình, đã khăng khăng ép ta chọn vĩ tuyến 17.
Khi chúng ta bàn bạc vấn đề này với Trung Quốc, họ đã nói: “Chúng tôi là
tướng ngoài mặt trận. Các đồng chí hãy để cho chúng tôi tùy cơ ứng
biến”. Khi nói như thế, người Trung Quốc đã tự cho mình quyền định đoạt
số phận của người Việt Nam”.
Sau này, vào 1972, TBT Lê Duẩn nói thẳng với Chu Ân Lai: “Năm đó, người Trung Quốc các anh đã bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán” (Một Thế Giới – tài liệu đã dẫn).
Tư tưởng “nước lớn” và “bành trướng” ngày càng bám rễ trong tư duy
của Trung Nam Hải do Mao lèo lái ngay cả khi Mao bị bóng tối giam cầm.
Bị mù, Mao vẫn bằng mọi cách trực tiếp xuất hiện trước lãnh đạo các quốc
gia đến thăm Trung Quốc như Thủ tướng nước Anh Sir Edward Health
(6.1974), Thủ tướng Vương Quốc Bỉ Leo Tindemans (19.4.1975), Thủ tướng
Thái Lan Kukrit Pramoj (1.7.1975).
Trong bóng tối, Mao sắp đặt cẩn thận và chu đáo chuẩn bị đón tổng
thống Mỹ Gerald Rudolph Ford sẽ đến Bắc Kinh (12.1975) tiếp tục bàn thêm
về thỏa hiệp Trung Mỹ – bao gồm việc Mỹ vẫn mở eo biển Đài Loan cho
những “hạm đội Đông Hải” của Mao theo con đường nhanh nhất tràn xuống
phía Nam? (còn nữa)
LỜI XIN LỖI
Vì bận công tác đột xuất, nên Giao Hưởng – tác giả loạt bài Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay đã có một số kỳ trễ hạn – thành thật xin lỗi Quý bạn đọc. Chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục để bảo đảm chuyển tới bạn đọc các kỳ tiếp theo của loạt bài đúng hạn. Cám ơn Quý độc giả đã ủng hộ và theo dõi tin bài của Một Thế Giớilâu nay. Trân trọng.
Vì bận công tác đột xuất, nên Giao Hưởng – tác giả loạt bài Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay đã có một số kỳ trễ hạn – thành thật xin lỗi Quý bạn đọc. Chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục để bảo đảm chuyển tới bạn đọc các kỳ tiếp theo của loạt bài đúng hạn. Cám ơn Quý độc giả đã ủng hộ và theo dõi tin bài của Một Thế Giớilâu nay. Trân trọng.
Giao Hưởng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét