Dẫn nhập: Bối cảnh Chiến dịch Di tản trẻ em
Bốn mươi năm về trước, trong những ngày của tháng tư 1975 hỗn loạn
trước cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, tại Sài Gòn, những cuộc di
tản các em mồ côi khỏi Việt Nam được thực hiện khẩn cấp chỉ diễn ra
trong vòng 3 tuần lễ qua Chương trình mang tên “Operation Babylift” (tạm dịch “Chiến dịch Di tản trẻ em”) do tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford ký ban hành.
Ngày 04/4/1975, một chiếc Lockheed C-5A Galaxy chở hơn 300 trẻ em
và người lớn C-5A bắt đầu rời đường băng Tân Sơn Nhất. Cất cánh khoảng
67 phút, chiếc C-5A bốc cháy sau tiếng nổ to ở cửa sau. Phi hành đoàn
buộc phải quay lại Tân Sơn Nhất. Khi cách Sài Gòn khoảng 16 km, C-5A
rơi, lướt đập vào bờ kè và gần như vỡ vụn! Chỉ 170 người lớn và trẻ em
sống sót với nhiều thương tích.
Dầu vậy, do tình hình chiến sự quá căng thẳng, chiến dịch di tản vẫn tiếp tục.
Trả lời phỏng vấn của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ngày 11/6/2010, nhà văn Dana Sachs, tác giả quyển “The Life We Were Given’ (Cuộc đời được ban tặng) phát biểu: “Tôi
nghĩ động cơ về việc thực hiện chiến dịch đưa trẻ em ra khỏi nơi nguy
hiểm là rất nhân bản và tự nhiên, khi chúng ta nhìn những bức hình trẻ
em trong những hoàn cảnh khó khăn thì chúng ta đều muốn giúp các em.
Nhưng vấn đề ở đây là chiến dịch babylift được thực hiện trong một giai
đoạn vô cùng hỗn loạn.”
Dana Sachs sau đó nêu lên vấn nạn xã hội mà ai nấy cũng đều quan tâm: “Cùng
với những sự hoang mang, sợ hãi, đã có nhiều sai sót xảy ra mà sau này
không thể sửa chữa được khi mà trẻ em đã được đưa khỏi Việt Nam và trao
cho các gia đình nhận nuôi. Không hề có nỗ lực nào để tìm hiểu xem những
đứa trẻ đó có còn cha mẹ ở Việt Nam hay không, những người có thể muốn
nhận lại con họ sau này, và vấn đề trở nên rất phức tạp.”
Hai đứa con trai chúng tôi, một đứa bấy giờ tròn 7 tuổi, một đứa 4
tuổi, cũng đã rời khỏi Việt Nam vào thời điểm ấy, chính xác là ngày
26/4/1975, trên chuyến bay cuối cùng của Operation Babylift –
Chương trình Di tản trẻ em ra khỏi Việt Nam vào những giờ phút căng
thẳng nhất của Miền Nam Việt Nam trước cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt.
Việc hai đứa con chúng tôi ra đi, trách nhiệm thuộc về chúng tôi,
tuy rằng mọi sự do chồng tôi quyết định vào giờ phút cuối vì bấn loạn
tinh thần. Không hề có ý định cho biến cố này, chúng tôi không chuẩn bị
cho con mình mang theo bất kỳ hành trang nào, kể cả giấy tờ tùy thân hay
dấu hiệu nhận dạng. Đó là nỗi đau lớn của tôi, một người mẹ đã để những
hòn máu yêu của chính mình vuột khỏi vòng tay mình.
Đã 40 năm rồi, có lẽ tôi không nên nhắc lại Chiến dịch Di tản trẻ em (Operation Babylift)
đầy nước mắt đối với tôi, kéo dài ròng rã 15-16 năm trời. Nhưng, báo
chí, nhất là báo chí CSVN không ngừng khai thác biến cố đau thương đã
qua để xuyên tạc, khích động hận thù, tôi không thể không lên tiếng
trong tư cách nhân chứng trực tiếp về Chiến dịch ấy.
I. Xót thương người kém may mắn
Như tác giả quyển The Life Were Given trình bày trong phần Dẫn nhập
cuốn sách của bà, việc di tản trẻ em Việt Nam ra khỏi vùng lửa đạn
không hề là chuyện mới mẻ đối với Hoa Kỳ. Nước Mỹ đã trải qua không ít
những lần giúp di tản và đón nhận trẻ em từ nhiều quốc gia do chiến
tranh.
Vào thời Phát xít Đức tàn sát người Do Thái (Holocaust), nước Mỹ đã từng đón nhận hàng ngàn trẻ em Do Thái lưu lạc.
Trong cuộc nổi dậy của Fidel Castro tại Cuba để áp đặt chế độ Cộng
sản toàn trị, hàng ngàn trẻ em rơi vào cảnh bơ vơ cũng đã buộc Chính
quyền Hoa Kỳ giang tay đón nhận các em.
Năm 1970 nước Nigeria (Phi châu) có tới 5 ngàn trẻ em thuộc bộ tộc Biafran phải rời bỏ quê mẹ của chúng.
Có điều là những trẻ em Cu Ba lẫn trẻ em Nigeria đều được nhanh
chóng đón nhận trở về quê hương của mình. Riêng tại Nigeria, nhà lãnh
đạo quốc gia Phi Châu này đã niềm nở chào mừng các đứa trẻ trở về bằng
lời chào thân thiện: “Các cháu lìa bỏ quê hương mình đâu phải là do
lỗi của các cháu. Chúng tôi rất, rất sung sướng thấy các em trở về đây
với chúng tôi”[1].
Phải chăng, nhà lãnh đạo của nước Phi châu nói trên ngầm ý tự thú rằng, lỗi thuộc về chiến tranh và cũng thuộc về kẻ thắng trận đang cầm đầu đất nước Nigeria lúc bấy giờ?
Nhà cầm quyền Cộng sản có cách hành xử như vậy không với người bị thua trận cùng gia đình và con cái của những kẻ bất hạnh?
Hơn nữa, nếu con số hơn 3 ngàn các em bé, con cái “ngụy quân, ngụy
quyền”, các trẻ mồ côi, các trẻ lai Mỹ không được di tản vào thời điểm
đó để vẫn ở lại tại Việt Nam, thì liệu các em có được yên ổn hòa mình
vào dòng chảy cuộc sống trên đất nước mình như mọi trẻ em Việt Nam khác
không?
Trở về với bối cảnh xã hội sau 30/4/1975, ai đoán biết chắc chắn số
phận người dân Miền Nam Việt Nam sẽ đi về đâu, thân phận các trẻ mồ
côi, các con lai và con cái của “ngụy” sẽ về đâu? Trong khi đó rõ ràng
suốt thời gian dài ít ra là 20 năm, kể từ thời điểm ấy đến năm 1995, các
trẻ lai và con cái “ngụy quân, ngụy quyền” đều kể như là đồng dạng,
đồng hình và đồng số phận với “Em Bé Lên Sáu Tuổi” mà nhà thơ Hoàng Cầm đã mô tả sinh động trên Nhân Văn Giai Phẩm 1956 tại Miền Bắc xhcn.
Em bé lên sáu tuổi
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn.
Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân.
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào Nam…
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ,
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đảo nhìn đời bỡ ngỡ:
“Lạy bà, xin bát cháo,
“Cháu miếng cơm, thầy ơi!”
Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy (= tra khảo)
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo (= viết kiểm điểm)
….
Nào “liên quan phản động”
“Mất cảnh giác lập trường”…
Em bé 6 tuổi (hồi năm 1956), cha bị diệt (giết chết) vì là “địa chủ
cường hào”, mẹ trốn vào Nam, còn lại một mình “Chân tay như cái que/
Bụng phình lại ngẳng cổ” đói rách cùng cực, xin ăn, chẳng ai dám cho,
trừ một cô công nhân lén “cho bát cháo”. Cô bị kiểm điểm tội “liên quan
phản động/ Mất cảnh giác lập trường”… và rồi mất việc! Ghê gớm chưa?
A. vài mẫu truyện về trẻ di tản
Xin phép tóm lược vài câu truyện liên quan tới một số trẻ di tản
1975 mà Dana Sachs đã thuật lại trong cuốn The Life We Were Given của
bà, đại khái như sau.
1) Bảy đứa con di tản.
Truyện kể về bà Đoàn Thị Hoàng Anh, một bà mẹ 32 tuổi hồi năm 1975,
có tới 7 đứa con vất vào Trụ sở Hội FCVN tại Sài Gòn khi bà di tản từ
Cao Nguyên Trung Phần vào thành phố này.
Theo lời kể của bà Anh, chồng bà bị quân cộng sản giết chết, để lại
cho bà 7 đứa con phải chăm sóc. Khi quân cộng sản tiến chiếm Cao Nguyên
vào Tháng Ba 1975, bà cùng dòng người tị nạn chạy trốn khỏi Cao Nguyên.
Bà Anh vất vả mang theo 7 đứa con cùng ít hành trang cần thiết. Trên
đường trốn chạy, có lúc bà đã phải dùng nước miếng của mình cho đứa bé
trai mút vì nó có nguy cơ chết khát.
Tới Sài Gòn, bà Hoàng Anh lúng túng chẳng biết tìm đâu nơi nương
tựa cho bản thân và cho 7 đứa con mọn. Nghe nói tại Sài Gòn có một Hội
thiện nguyện tên là Hội Bạn Thiếu Nhi Việt Nam – Friends of Children of Viet Nam
(FCVN), và rằng, Hội này có thể đưa trẻ em Việt Nam ra nước ngoài an
toàn, bà mang hết 7 đứa con của mình tới Trụ sở Hội FCVN, chen lấn với
đám đông hỗn loạn trước cổng trụ sở. Bà may mắn gặp một thanh niên người
Mỹ tên Ross Meador, đồng Giám đốc hải ngoại của FCVN cùng bà Cherie
Clark. Người thanh niên Mỹ tuổi trẻ, nhưng bầu nhiệt huyết cao, nhất là
đối với trẻ em VN nạn nhân chiến tranh. Cậu động lòng từ tâm trước sự
van xin khẩn thiết của bà Hoàng Anh, nên chấp nhận cho cả 7 đứa trẻ được
đi Mỹ.
Theo lời bà Hoàng Anh do tác giả Dana Sachs thuật lại, khi Ross
Meador yêu cầu bà Hoàng Anh ký tên đồng thuận cho Hội FCVN quyết định
đưa 7 đứa con bà vào “diện” con nuôi khi tới Mỹ, bà Anh từ chối (?) Bà
nói đứa gái lớn của bà sẽ chịu trách nhiệm lo cho các em của nó (?)
trong vòng hai năm, bà sẽ tìm cách đi Mỹ sau đó (?) Thế là cả 7 đứa bé
rời khỏi Việt Nam trên chuyến bay ngày 26/4/1975. (Cùng ngày và cùng
chuyến bay với 2 đứa con trai của tôi).
Ở đây xin mở dấu ngoặc về sự từ chối của bà Hoàng Anh. Nếu vào lúc
dầu sôi lửa bỏng mà bà mẹ gửi con cho người ta lại bảo có đứa gái lớn “sẽ chịu trách nhiệm lo cho các em nó trong vòng hai năm”,
có lẽ không cơ quan thiện nguyện nào dám chấp nhận. Đâu có gì bảo đảm
việc đứa lớn sẽ lo cho 6 đứa em nó ở một nơi hoàn toàn xa lạ? Mặt khác,
bà Hoàng Anh lấy gì bảo đảm sẽ đi Mỹ được ngay sau khi 7 đứa con bà đã
đi, trong lúc chiến cuộc leo thang từng giờ và định mệnh thì vô cùng
nghiệt ngã?
Đến tháng 8/1975, bà Đoàn Thị Hoàng Anh tới được Hoa Kỳ. Tháng
9/1975, sau khi ổn định được chỗ định cư ở Mỹ, bà Hoàng Anh nhờ Hội Hồng
Thập Tự Mỹ giúp tìm 7 đứa con bà để đưa về đoàn tụ với bà. Chỉ trong
vài ngày, ngày 28/9/1975, bà Hoàng Anh được xum họp với 4 trong số 7 đứa
con của bà do một thành viên trong Hội FCVN ở Denver (Colorado) nuôi
dưỡng và hoàn lại cho bà. Vừa gặp bà, chúng hớn hở reo mừng: “Má! Má!”
Đứa con trai út của bà Anh tên là Đoàn Văn Bình thì do ông bà
Johnny và Bonnie Nelson bảo dưỡng tại Tiểu bang Iowa. Ông bà Nelson
không tin bà Hoàng Anh là mẹ ruột của cháu Đoàn Văn Bình, nên từ chối
hoàn trả đứa bé theo yêu cầu của bà. Bà Hoàng Anh đệ đơn kiện lên Tòa Án
Tiểu bang Iowa. Bà thua kiện ở Tòa sơ thẩm. Nhưng 6 tháng sau, ngày
06/02/1976, Tòa phúc thẩm phán quyết cho bà Hoàng Anh quyền nhận lại đứa
con.
Điều đáng chú ý ở đây là lời nhận định của ông Chánh án Tòa Thượng thẩm Iowa trong phiên phúc xử. Ông tuyên bố: “Chúng
tôi hoàn toàn không thấy việc bà Hoàng Anh giao con mình cho Hội FCVN
làm sao lại được diễn dịch là một dấu chỉ rằng bà ấy bỏ con. Trái lại,
việc bà kiên định tìm kiếm chúng trên xứ sở này xác quyết rằng bà tỏ rõ
tâm ý chu toàn trách nhiệm và bổn phận làm cha làm mẹ của mình” [2].
Còn lại 2 cháu khác, theo Dana Sachs, về sau bà Hoàng Anh biết được
một trong hai đứa con này do một gia đình người Pháp nuôi dưỡng nhưng
bà không tiếp cận được với gia đình này. Không rõ kết quả cuối cùng ra
sao.
Dù sao, trong 7 đứa con thất lạc, bà mẹ nhận về cho mình 5 đứa với
thời gian chưa tới một năm từ ngày xa cách thì cũng đã là niềm an ủi
lớn!
Thú thật, nếu tôi ở vào hoàn cảnh của bà Hoàng Anh trên đây, tôi sẽ
hết lòng đội ơn anh Ross Meador, bà Cherie Clark, Hội FCVN cùng tất cả
những ai góp tay cứu sống và nuôi dưỡng con mình. Giả sử mỗi mình bà
(như bà kể) với hai bàn tay trắng cứ nặng gánh một lúc 7 đứa con, chơi
vơi giữa đô thị Sài Gòn vào những giờ thành phố này đang lên cơn hấp
hối, bà sẽ xoay trở làm sao? Có cứu được mình và cứu được trọn vẹn 7 đứa
con của bà không?
2) Cha mẹ nuôi trì hoãn trả con cho mẹ ruột
Một bà mẹ Việt Nam khác tên Dương Bích Vân tại Tiểu bang Michigan
đã đệ đơn lên Tòa án đòi quyền nhận lại đứa con trai bà rời Việt Nam
theo Chiến dịch Di tản Trẻ em. Quan Tòa lúc bấy giờ đặc biệt tập chú vào vấn đề quyền lợi cao nhất của đứa trẻ.
Bà Bích Vân nói khi rời bỏ con mình, bà đã không hề ký một giấy tờ
nào về đứa bé. Khi đến được Mỹ, bà mẹ biết con mình đang ở đâu do ai
nuôi. Bà kêu cứu để được giúp đưa con bà về với bà. Nhưng gia đình cha
mẹ nuôi đứa bé nghe theo lời khuyên của luật sư đã cố tình trì hoãn việc
hoàn trả đứa bé với mục đích làm nản lòng người mẹ muốn đòi con.
Sau gần trọn một năm dằn co, đến tháng 6/1976, vụ kiện ngã ngũ. Tòa nêu lên câu hỏi: “Ai mới thật sự quan tâm tới đứa trẻ trong vụ này?” Nếu
gia đình cha mẹ nuôi thật sự có lòng quan tâm tới quyền lợi cao nhất
của đứa bé, thì tại sao họ không mau chóng đến tòa giúp kết thúc vụ kiện
mà lại cố tình trì hoãn lâu dài? Do đó, tòa quyết định cho bà mẹ ruột
đứa bé được quyền nhận lại con mình (trang 201-202).
3) Mẹ ruột chấp nhận thử thách
Vị quan tòa ở Tiểu bang California đã có một quyết định đầy sáng
suốt đối với quyền nuôi dưỡng đứa con trai thất lạc hồi 8 tuổi tên “Tuấn
Anh” như sau:
Tuấn Anh là tên của đứa bé con lai Mỹ của người thiếu phụ tên Lê
Thị Sang. Bà Sang vốn là người làm công cho cặp vợ chồng William và
Elizabeth Knight đang công tác tại Việt Nam. Vào những ngày cuối cuộc
chiến (1975), bà Sang sợ Cộng sản ám hại con mình, đã giao nó cho ông bà
Knight, nhờ đưa đi Mỹ. Di tản đến Hoa Kỳ, cháu Tuấn Anh được ông bà
Knight nuôi dưỡng và đã đặt tên cho nó là Dean – Dean Knight.
Vào lúc đứa con trai bà Sang di tản thì bà Sang cũng thoát khỏi
Việt Nam để đi đến Hoa Kỳ. Ở đây, bà Sang tìm được nơi cư trú của ông
Knight. Bà yêu cầu hoàn trả đứa bé lại cho bà. Ông bà Knight từ chối với
lý do đứa bé đã được bà Sang “mang cho” để làm con nuôi và hiện nó đang
hưởng cuộc sống mới tốt đẹp. Bà Sang không đồng ý, đã đệ đơn khởi kiện.
Vụ án kéo dài 20 tháng – thời gian dài đủ cho đứa bé khăng khít với
cha mẹ nuôi của nó. Nó không còn nhớ gì về Việt Nam và cũng chẳng cần
biết tới Việt Nam. Quan tòa tự đặt cho mình câu hỏi: “Liệu việc trả đứa bé về cho mẹ ruột nó có gây nguy hại gì cho bản thân nó không?” Và
rồi ông quyết định: Giao đứa bé cho mẹ đẻ trong vòng ba tháng. Nếu sau
ba tháng, bà Sang chứng minh con bà thật sự yêu thương mẹ ruột, thì nó
sẽ được hoàn trả cho mẹ ruột.
Bà mẹ đã phải lao tâm khổ tứ biết bao để lập lại tình mẹ-con giữa
bà và cháu Tuấn Anh dù rằng bà không khỏi trải qua một số chướng ngại.
Chẳng hạn, không ít lần thằng bé nổi cơn, đòi “mét” quan tòa và đòi chạy
về với cha mẹ nuôi. Nhưng nhờ kiên nhẫn, nhờ thể hiện tình mẫu tử của
mẹ đối với con và cũng nhờ đứa bé nhanh chóng thích nghi với cuộc sống
mới, cháu Tuấn Anh bắt đầu gọi “Má” thân thương và gắn bó với mẹ mình.
(Trang 202-203).
4) Mẹ con đoàn viên tại Việt Nam
Mẩu truyện cuối cùng kể về một bé gái 7 tuổi tên là Hồ Thị Ngọc Anh
được mẹ đẻ là bà Hồ Thị Hân (Hán?) từ Đà Nẵng đưa vào Vũng Tàu khi bà
chạy loạn vào những ngày cuối tháng 4/1975. Tại đây, bà mẹ chấp nhận để
con gái lai Mỹ của mình ra khỏi nước trên một chiếc tàu mỏng manh. Còn
chính bà và những đứa con khác của bà (không lai) trở về Đà Nẵng.
Cháu Ngọc Anh được đưa tới Mỹ và được xếp vào một cô nhi viện tạm
thời ở Philadelphia (Pennsylvania). Hình ảnh cháu Ngọc Anh sau đó được
đưa lên truyền hình Mỹ. Một gia đình Mỹ gốc Do Thái (ông bà Syd và Norm
Gelbwaks) từ Connecticut lái xe ô tô đến Philadelphia xin nhận cháu Ngọc
Anh làm con nuôi. Vì quen với bầu khí cô nhi viện, ban đầu cháu Ngọc
Anh phản ứng bằng cách la khóc, tránh xa gia đình này. Nhưng cuối cùng,
cháu bé đã chịu đi cùng gia đình về Connecticut. Điều đáng nói ở đây là
người mẹ đẻ của cháu Ngọc Anh vẫn còn ở lại Việt Nam (trang 192-196).
Tới cuối quyển sách (trang 225), tác giả cho biết sau 30 năm lưu
lạc, người mẹ ở Việt Nam không ngừng tìm kiếm con. Trên đường phố Đà
Nẵng, gặp bất kỳ người du khách Mỹ nào, bà Hân (hay Hàn) cũng hỏi về con
mình. Thế rồi bà may mắn gặp được một viên chức của Hội Hồng Thập Tự
Hoa Kỳ. Người này về Mỹ, tìm được tông tích Ngọc Anh (nay đã có chồng
con). Nhờ một bức hình cũ, Ngọc Anh nhận ra mình lúc còn thơ bé trong
vòng tay của mẹ. Ngọc Anh thu xếp cùng chồng và cả bà mẹ nuôi đi về Việt
Nam. Nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời trở về với ký ức Ngọc Anh. Dù ngôn
ngữ là rào cản, nhưng nó không cản trở được tình mẹ-con.
Dana Sachs kết thúc câu chuyện bằng những lời minh họa cảm động như sau:
Anh [tức Ngọc Anh] nói: “Dầu tôi chẳng hiểu mẹ tôi nói gì, [giữa mẹ-con chúng tôi] vẫn
có sự liên kết và gần gũi. Mẹ tôi luôn luôn nói ‘Mẹ thương con’. Dầu
rằng người em trai một mẹ khác cha của tôi không có mặt ở đó để phiên
dịch và dù chúng tôi không ai hiểu ai, mẹ tôi vẫn nắm lấy tay tôi’.
Giống như trong cuộc hỗn loạn của những ngày cuối cuộc chiến thảm khốc
ấy, người mẹ đau khổ đã siết chặt hai bàn tay con gái mình trong tay
mình, rồi nâng nó để nó tự tìm đường vươn ra thế giới như một con chim
non. Giờ thì sau những năm mỏi mòn, bà mẹ lại nâng lấy tay con mình, kéo
đứa con trở về phía mình với mình” [3].
Lời kết của mẩu truyện trên đây được chính Dana Sachs dùng để kết thúc cuốn sách The Life We Were Given của bà.
Tâm trạng cá nhân tôi cũng na ná tâm trạng các bà mẹ trên đây. Và
tôi tin là các con tôi cũng thấu hiểu lòng tôi như cô Ngọc Anh hiểu được
nỗi lòng mẹ mình qua cái siết chặt tay giữa hai mẹ con với nhau.
B. Những nỗ lực kiếm tìm
1) Mẹ nuôi quyết tìm mẹ ruột của đứa con nuôi.
Có người cho rằng cha mẹ nuôi của các trẻ di tản Việt Nam chẳng
những không tận tình dưỡng dục các em, mà còn tìm cách ngăn cản cha mẹ
ruột đoàn tụ với con cái mình. Quả đã có tình trạng na ná như vậy, nhưng
chỉ trong ít trường hợp riêng lẻ cá biệt. Kẻ xấu thì lúc nào cũng lợi
dụng cơ hội, bé xé to, nhất là cho mục đích tuyên truyền, như đã chứng
minh trên.
Ở đây, xin nêu ra một bằng chứng nữa về cách hành xử của cha mẹ
nuôi người Mỹ có lương tâm và có tấm lòng nhân đạo thật sự đối với con
nuôi của mình cũng như với mẹ đẻ của đứa bé. Đó ông bà Paul và Cheryl
Markson, Tổng Giám đốc Điều hành Hội FCVN tại Hoa Kỳ.
Ngoài nhiệm vụ đối với FCVN, ông bà Markson cũng nuôi một số trẻ em
nạn nhân chiến tranh Việt Nam như ông bà Clark. Trong số các trẻ do ông
bà Markson nhận nuôi, có một cháu gái mà bà Cheryl Markson biết chắc
chắn nó còn mẹ. Người mẹ ruột khốn khổ của nó sống đâu đó tại Việt Nam.
Năm 1991, sau khi cung cấp tin tức về đứa con trai thất lạc thứ hai
của tôi là cháu An, bà Cheryl có viết thư nhờ tôi tìm tin tức về bà mẹ
ruột của đứa bé mà bà đoán có thể đang lưu lạc ở vùng Châu Đốc, Rạch
Giá.
Tiếc thay! Vào thời điểm đó, chúng tôi đang tất bật hoàn tất hồ sơ
đi định cư theo chương trình (HO) cựu tù nhân chính trị. Mặt khác, chồng
tôi vẫn còn thuộc “diện quản chế” nên nhất cử nhất động của anh đều bị
theo dõi. Dầu vậy, chúng tôi vẫn lặn lội đi tới vùng Châu Đốc-Rạch Giá
cho được, để tìm hỏi vài người và bỏ tiền đăng báo địa phương tìm trẻ
lạc. Nhưng năm 1991, năm mà bà Cheryl Markson nhờ chúng tôi đi tìm người
mẹ ruột của đứa bé con nuôi, cũng là năm chúng tôi phải chạy lo thủ tục
xin đi tị nạn, thành thử tôi ân hận đã không làm tròn điều phải làm để
bù đắp phần nào công ơn tôi được huởng từ tấm lòng quảng đại của nhiều
người, trong đó có ông bà Markson. Cuối năm ấy (1991) gia đình chúng tôi
rời Việt Nam.
Không rõ sau này bà Cheryl Markson có tìm ra mẹ ruột của đứa bé để
dựng lên cảnh đoàn tụ ấm cúng cho họ giống như trường hợp của chúng tôi
hay không. Dù sao, đối với tôi, việc làm đầy thiện chí của bà mẹ nuôi
người Mỹ có tên Cheryl Markson rõ ràng là một nghĩa cử mẫu mực về tình
nhân loại rất đáng khâm phục.
2) Lời kêu cứu khẩn thiết.
Chuyện tìm con của tôi đã có hồi kết “có hậu” sau hơn 15 năm khắc
khoải. Tôi nhận được hình ảnh tin tức cả hai đứa con trai thất lạc của
tôi, không phải trên đất Mỹ mà ngay khi còn ở Việt Nam, đứa lớn năm
1990, đứa nhỏ năm 1991. Đến cuối năm 1991, gia đình chúng tôi rời Việt
Nam theo diện HO. Chính bà Debra Kasper mẹ nuôi cậu trai lớn của tôi bảo
trợ gia đình chúng tôi đến ngụ nhà bà tại thành phố New York. Cả hai
đứa con tôi lúc bấy giờ đều có mặt tại phi trường JFK, New York, đón
chúng tôi. Đứa em, sau đó phải về với gia đình dưỡng phụ ở Boulder,
Colorado để hành trang vào đại học.
Tuy nhiên, bên cạnh tôi, chung quanh tôi, cả trong giới người Việt
cũng như trong mọi dân tộc khác, không hiếm gì những bi kịch mẹ lạc mất
con do hoàn cảnh này hay biến động khác. Thiên tai. Chiến tranh. Mâu
thuẫn gia đình. Thù hằn cá nhân. Đói rách. Cướp giật… Tất thảy đều có
thể là nguyên nhân của những phân ly bất chợt đứt ruột xé gan!
Có những người mẹ bằng mọi giá quyết tìm lại cho được máu thịt đã
chia lìa. Cũng có những bà mẹ cam phận bất lực do tình cảnh khốn đốn về
mặt an toàn cá nhân hay về phương diện tài chánh. Rồi năm năm, mười năm,
hai mươi năm, ba mươi năm trôi đi lặng lẽ, bóng con cứ mãi biền biệt xa
cách mẹ hiền! Nỗi dằn vặt đè nặng biết bao bà mẹ bạc phước… chờ mãi
không thấy con, và rồi nhắm mắt ra đi ôm theo nỗi đau xuống tuyền đài!
Là người mẹ có con thất lạc, tôi thật sự cảm nghiệm thế nào là nỗi
đau lạc mất con, mà hàng ngàn lời kể, hàng chồng trang giấy dày đặc
câu-chữ cũng không sao tả cho hết.
Từ kinh nghiệm của người trong cuộc, tôi tha thiết khẩn khoản van
nài tất cả các bậc dưỡng phụ, nghĩa mẫu, các nhà giám hộ trẻ cô nhi hay
trẻ lạc loài hãy vì lòng nhân đạo và sự quảng đại vô vị lợi của mình,
bằng mọi nỗ lực có thể, giúp tìm cho ra cội nguồn cha mẹ đẻ của những
đứa trẻ vô phần bạc phúc, nối kết mẹ-con họ lại với nhau…
3) Ba Mươi Tám năm – chưa dứt kiếm tìm.
Năm 2013, tức 38 năm sau cuộc chiến Việt Nam, vẫn còn những cha mẹ
rao tìm con cái hay con cái rao tìm cha mẹ một cách tuyệt vọng, nhưng
vẫn trông chờ “còn nước còn tát”. Điển hình, người ta đọc thấy trên
internet (tháng 4/2013) lời rao bi thảm của người cha tên Cao Anh Vân và
người mẹ tên Nguyễn Thị Lan hiện định cư tại Westminster, CA, Hoa Kỳ
quyết tìm con mình là “Cao Thị Minh Phương, sinh năm 1964, thất lạc
lúc 11 tuổi tại bến tàu căn cứ Chu Lai, tỉnh Quảng Tín vào Tháng Hai năm
1975 khi gia đình di tản. Cháu lúc đó được gởi cho một người tên Minh
giữ hộ trong khi gia đình lo bồng bế các đứa con khác trong khi loạn
lạc. Địa chỉ cha mẹ hiện nay: 13931 Newland St. #7, Westminster, CA
92683 USA.”
Còn đây lời rao của đứa con thất lạc rao tìm cha, cũng vào dịp tháng 4/2013: “Con
gái là Bích, hiện ở Pháp, tìm cha: Tô văn Giảng, trước 75 làm việc tại
Air Việt Nam, văn phòng đặt tại số 116 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ba ơi, có
còn nhớ con không? Con gái là Bích đây. Hồi những năm 70 -71, nhà mình ở
Cư xá Nguyễn Hoàng, sang năm 72 thì dọn về Cư xá Lữ Gia Quận 11, Phú
Thọ. Hồi đó con còn nhỏ lắm, nhưng vẫn nhớ mỗi lần Ba về thăm đã bồng ẵm
con và cho con nhiều đồ chơi, bánh kẹo. Từ ngày 30/04/75 đến nay con
không còn nhận được tin tức gì của Ba nữa, vậy được tin này mong Ba, nếu
còn sống ở đâu đó cho con được biết tin. Xin quý Cô Bác, anh chị em nào
có biết chút tin tức gì cuả Ba tôi, dù rất mong manh cũng xin vui lòng
viết cho tôi vài hàng qua đ/c E -mail: bichsg71@hotmail.fr”
Tôi thầm mong những người mẹ xấu số sẽ nhận được những lời an ủi ủy
lạo của người xung quanh hơn là những lời dè bỉu mỉa mai khoét sâu thêm
vết thương lòng. Nhất là mong đừng ai vì động cơ chính trị hay tiền bạc
mà làm cho việc tìm kiếm đứa bé thất lạc đi tới chỗ bế tắc hoặc đào sâu
hố ngăn cách giữa cha mẹ ruột với con cái hay với cha mẹ nuôi các cháu.
II. Con cần mẹ
Hồi tưởng chuyện hai con trai tôi thất lạc vào ngày 26-4-1975, đến
giờ tôi cũng còn cảm thấy vết thương chưa lành, hay nếu đã lành thì vẫn
để lại vết sẹo sần sù mẩn ngứa. Tôi sợ con tôi nặng lòng oán trách tôi,
vì chúng chưa hiểu tôi, chưa hiểu được hoàn cảnh đất nước vào những ngày
cuối của cuộc chiến và lúc đó cha của chúng nó bị coi là “kẻ thù ác ôn”
của chế độ mới, thậm chí là kẻ thù của “nhân dân”.
Sự hiện diện của gia đình chúng tôi và hàng triệu người Việt trên
đất nước Hoa Kỳ này chẳng nói lên được với con tôi những đau thương mà
các gia đình “đối tượng” của chế độ Cộng sản tại Việt Nam đã phải gánh
chịu sao?
Mong các con tôi hiểu được tâm trạng rối rắm của cha chúng nó vào
những ngày dầu sôi lửa bỏng cuối cùng của cuộc chiến. Dĩ nhiên, trong
quyết định của chồng tôi có phần trách nhiệm của chính tôi.
Trong một cách thức nào đó, tôi đã không chu toàn nghĩa vụ làm mẹ
(vì để lạc mất con mình). Đó chính là căn nguyên đưa đến tình trạng
thiếu vắng ảnh hưởng văn hóa Việt Nam nơi hai con tôi cả về ngôn ngữ lẫn
cung cách giao tiếp và lối sống thường nhật của chúng. Do đó, đến giờ
phút này trong thâm tâm tôi vẫn còn luẩn quẩn câu hỏi “Con Tôi Đâu Rồi?” như thể tôi vẫn chưa thật sự tìm gặp lại con, tuy bây giờ tôi có thể kêu lên: “Con Tôi Đây Rồi!” với hai đứa con trai bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt tôi!
Như đã nêu trên, Chiến dịch Di tản Trẻ em chỉ nhằm mục đích
đón nhận trẻ mồ côi và những đứa bé vô thừa nhận. Tuy nhiên, không ít
trẻ em còn cha còn mẹ đã phải rời bỏ cha mẹ mình, điều mà chính cha mẹ
các em khi “đẩy” con mình đi đã không tưởng tượng nổi vì sao mình hành xử vô lý và hầu như vô tâm đến như vậy! Chỉ còn biết tự an ủi: “Cái số của tôi bắt tôi phải thế!”
Nhưng số phận của những đứa bé còn cha còn mẹ bỗng dưng trở thành
mồ côi ra sao, đó là điều mà tôi hằng băn khoăn ray rứt. Khi đọc quyển “The War Cradle” [4] của
Shirley Peck-Barnes, tôi mới nhận ra phần nào cảnh các trẻ di tản từ
Việt Nam được đưa tới Denver, Colorado, Hoa Kỳ vào thời gian diễn ra
Chiến dịch Di tản vào tháng 4/1975.
1. Chuyện về một bé gái “không mồ côi”.
Các trẻ di tản VN được đưa vào Trung tâm Chăm sóc ở Colorado gọi là Continental Care Center.
Tại Trung tâm này có vài khoảnh khắc các em hoàn toàn ở ngoài vòng kiểm
soát của người lớn. Chúng thoải mái múa may quay cuồng bất chấp kỷ luật
của Trung tâm. Một số các em lấy làm thích thú leo bò lên xuống các bậc
thang lầu, nô đùa la hét inh ỏi. Một số các em khác thì gào khóc thảm
thiết, các em quơ quào hất đổ mọi thứ đồ chơi mà các nhà hảo tâm Mỹ biếu
tặng.
Không cách dỗ dành nào có hiệu quả! “Chẳng có gì, đơn giản là
chẳng có gì có thể làm dịu bầu khí. Điều mà các trẻ ước mong thì ban
điều hành lại không cung cấp được. Đơn giản là các em chỉ cần mẹ của các em – mẹ riêng của các em chứ không phải những người này đây với những khuôn mặt xa lạ không nói được tiếng nói của các em” [5].
May ra âm nhạc giúp được gì cho các em không? Vì âm nhạc là ngôn
ngữ quốc tế, nó vượt qua mọi rào cản để đưa con người xích lại gần nhau
dù những con người đó là những cháu bé thơ. Nhưng những đứa bé Việt Nam
này từng sống trong chiến tranh có lẽ nghe tiếng bom đạn nhiều hơn là
thưởng thức âm nhạc, thì biết nhạc cụ gì hay bản nhạc nào thu hút các
em? Dạo thử bản “Frère Jacques! Frère Jacques! Dormez vous…” của Pháp xem sao. Có lẽ bản nhạc không đến nỗi xa lạ với các trẻ Việt Nam!
Quả nhiên, khi các em nghe đàn dương cầm (piano) trổi lên khúc
nhạc, các em lấy làm thích thú, dường như cùng hát theo. Một số em nhảy
múa hào hứng. Sau bản nhạc trên, một em gái Việt Nam trong nhóm, khoảng
15 tuổi, bước tới chiếc dương cầm. Tay em thoăn thoắt gõ lên các phím
đàn xem khá điêu luyện. Dường như là một bài hát nhi đồng Việt Nam. Các
em hưng phấn lên. Nhiều em hát theo, vỗ tay nhịp nhàng. Bầu khí sôi nổi
hẳn lên.
Nghe đâu em bé 15 tuổi này thuộc con nhà khá giả, nên được học
dương cầm, môn học dành cho con cái tầng lớp khá giả ở thành phố. Mà
thật vậy, bé gái 15 tuổi kia là con gái của một vị Tướng Tư lệnh gì đó
(Commanding General [6]) tại Sài Gòn. Chính cháu tiết lộ: “Cha
cháu là một ông Tướng. Người ta đẩy cháu lên máy bay để cháu rời khỏi
nơi ấy – My father is a General. They pushed me on a plane to get out of
there.” (The War Cradle, p. 239). Người cha kẹt lại ở Việt
Nam. Có lẽ ông muốn ở lại để tròn trách nhiệm một quân nhân hoặc ông dự
đoán sẽ chết cùng với gia đình khi Cộng sản chiếm Sài Gòn. Tình cảm
thiêng liêng của ông với đứa con gái bé bỏng kia thôi thúc ông cứu nó
bằng cách để nó ra đi chăng?
Dựa vào tác giả Dana Sachs [7] với quyển The Life We Were Given, một bài báo [8] của tờ Sài Gòn Tiếp Thị cho rằng “chiến
dịch không vận mở ra như một lối thoát cho những trẻ mồ côi cha mẹ và
trẻ em lai, song, nó cũng trở thành cánh cửa để nhiều gia đình có tiền,
quyền lực ở miền Nam giành giật cơ hội cho con em họ lưu vong”.
Nhận xét này không chính xác đối với tôi, và có lẽ cũng không đúng
với nhiều người khác đã “đẩy” con mình ra đi vào thời gian đó. Theo The War Cradle của
Shirley Peck-Barnes, cháu gái 15 tuổi trên đây không phải là trường hợp
hi hữu. Không ít trẻ em VN còn cha còn mẹ hẳn hoi đã di tản bằng những
kiểu cách vội vàng, do cha mẹ các em mất hết khả năng tự chế đến độ liều
lĩnh như vậy! Một phản xạ của tuyệt vọng! Chẳng hề có một dự tính, một
mưu toan, một sự xếp đặt nào! Và cũng khó có thể xảy ra chuyện chạy
chọt, đút lót trong hoàn cảnh hoảng loạn tinh thần cực độ thế đó. Vị
tướng của VNCH nêu trên, quyền uy giữa Sài Gòn không phải nhỏ, thế mà
vào giờ phút chót phải “đẩy” con gái còn thơ của mình ra đi như vậy thì ông ta có dựa vào “quyền lực ở miền Nam giành giật cơ hội cho con em họ lưu vong” như bài báo của CS đã suy bụng ta ra bụng người như trên hay không?
2. Những thắc mắc được giải đáp.
Vào những năm cuối thập niên 1980, khi biết linh mục Nguyễn Đức Tiến[9],
vị linh mục cùng dạy học với chúng tôi tại một trường Trung học Công
giáo ở Việt Nam, đang có mặt tại Hoa Kỳ, tôi liền nhờ ngài giúp tìm hai
con tôi. Cha Tiến tận tình giúp đỡ, nhưng cuối cùng ngài viết thư cho
chúng tôi biết, ngài thất bại hoàn toàn vì phía người Mỹ mà ngài liên
lạc được trên điện thoại đã cắt đường dây, đổi số điện thoại để ngài
không gọi vào được nữa.
Năm 2008, đọc được quyển hồi ký After Sorrow Comes Joy [10] (tạm dịch: Sau Cơn Phiền Muộn Tới Niềm Vui)
của bà Cherie Clark, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2000, tôi đã hiểu phần nào
những hy sinh cao cả của người Mỹ để giúp trẻ em di tản khỏi VN đồng
thời cũng hiểu được lòng nhiệt tình của Cha Tiến và biết được vì sao
ngài thất bại. Tôi cũng hiểu rõ hơn cách “đối phó” của người ở đầu dây
bên kia…
Cuốn hồi ký của bà Cherie Clark cho tôi có cái nhìn chính xác hơn
và phán xét công bằng hơn về các hoạt động nhân đạo của FCVN tại Việt
Nam trước 30/4/1975 cũng như diễn tiến của chuyến di tản trẻ em VN ngày
26/4/1975 trong đó có mặt hai đứa con trai tôi.
Tôi cũng hiểu được những khó khăn của FCVN trong vấn đề hộ tịch của
các em bé di tản. Bà Cherie Clark cho biết, sau chuyến bay định mệnh
ngày 04/4/1975 khiến nhiều em bé VN thiệt mạng, FCVN nhận được chỉ thị
rằng, mọi trẻ di tản phải có tên gọi và phải lên danh sách hẳn hoi. Do
đó, các trẻ thuộc về Hội FCVN đều mang một tên gọi tiếng Anh có kèm hay
không kèm theo tên gọi tiếng Việt do Hội FCVN đặt cho ngay khi Hội nhận
em ấy vào Trung tâm, vì phần lớn các em được đưa đến với Hội đều không
có giấy tờ tùy thân.
Khi các em chuẩn bị lên phi cơ di tản, mỗi em mang trên cánh tay và
khuỷu chân hai thẻ bài có tên gọi mới của mỗi em cùng với bốn chữ FCVN
và số ký hiệu phù hợp với 3 bản danh sách: 1 nộp cho cơ quan thẩm quyền,
1 trao cho vị sĩ quan phụ trách chuyến bay, và 1 lưu hồ sơ Hội. Với
những em đã có người ở Mỹ ghi danh nhận nuôi và đã được chấp thuận thì
trên thẻ bài có tên họ của cha mẹ nuôi thay vì tên họ do Hội đặt cho các
em [11].
Ngoài ra, điều mà tôi luôn ưu tư là tình hình sinh sống và cách xử
sự của cha mẹ nuôi đối với hai đứa con tôi. Nếu rủi ro con tôi bị trao
vào tay những cha mẹ rượu chè, xì ke ma túy hoặc có một đời sống không
mấy đàng hoàng thì thật là bất hạnh cho con tôi mà cũng là một sự ray
rứt triền miên cho lương tâm một người mẹ.
Những lo âu trên đây của tôi được bà Cherie Clark giải đáp qua cuốn
hồi ký của bà. Chẳng hạn, nhắc tới điều kiện xin nhận con nuôi, bà
Cherie Clark nêu rõ: Theo luật định, người Mỹ nào đệ đơn xin con nuôi
ngoại quốc cũng được một viên chức xã hội mở một cuộc “điều tra tại nhà”
để xem người xin con nuôi có khả năng làm cha, làm mẹ một đứa trẻ vốn
từ một nguồn gốc chủng tộc khác hay không. Viên chức ấy giúp “cha mẹ
nuôi tương lai” hoàn tất các hồ sơ theo thủ tục nhận nuôi con. Hồ sơ gồm
giấy chứng nhận hôn thú, giấy chứng nhận khai sanh, giấy xác nhận tài
chánh và tình trạng y tế – tất cả những gì có thể xác định người xin làm
cha mẹ nuôi hội đủ tư cách và điều kiện để hoàn thành trách nhiệm này.
Lại nữa, trong nhiều trường hợp, người xin làm cha mẹ nuôi còn phải có
thư giới thiệu của một vị dân cử hay một vị lãnh đạo tinh thần địa
phương[12].
3. Làm ơn mắc oán?
Sự kiện sau đây cũng giải thích cho tôi những khó khăn mà ông bà
Thomas và Cherie Clark cùng Hội Bạn Thiếu Nhi Việt Nam (FCVN) đã đối
diện.
Theo lời kể của bà Cherie Clark, những nguy hiểm của bom đạn cùng
nhiều tai họa khác đang đe dọa, lúc đầu có làm cho các cộng sự viên của
Hội FCVN hoang mang, nhưng như bà Cherie Clark mô tả, “lòng trung
thành của họ [các cộng sự viên] với chúng tôi và với các nhu cầu cấp
thiết của đám thiếu nhi mà họ chăm sóc thì lớn hơn nhiều so với nỗi sợ
bị trả thù.” Bà Cherie Clark và nhóm điều hành FCVN nhận định rằng
các em thiếu nhi ấy không có chút hy vọng sống còn tại Việt Nam. Nếu các
em không sớm di tản, sẽ có nhiều em thiệt mạng oan uổng. Bấy giờ trách
nhiệm về mặt tinh thần của FCVN sẽ lớn hơn gấp bội.
Điều oái oăm là tại cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, cuộc di tản
trẻ em trở thành đề tài bất lợi cho chính sách nhân đạo của Mỹ. Theo bà
Cherie Clark, “tại Miền Nam có nhiều tin đồn cho rằng các trẻ em bị
đưa đi Mỹ không phải là trẻ mồ côi mà là những trẻ bị tách khỏi cha mẹ
chúng hay thậm chí bị bắt cóc. Trong khi đó, tại Miền Bắc, Cộng sản lợi
dụng cơ hội cho mục đích tuyên truyền của họ, la toáng lên rằng người Mỹ
bắt cóc và giết chết trẻ em Việt Nam” [13].
Qua hồi ký của bà Cherie Clark, tôi nhận ra rằng, vì lòng nhân đạo
mà bà và Hội FCVN của bà phải hứng chịu nhiều đắng cay chua xót. FCVN và
bà Cherie Clark, Giám đốc điều hành hải ngoại của tổ chức xã hội vô vị
lợi này, trở thành nạn nhân khốn khổ trăm bề với một vụ kiện đòi con
“quái dị” ngay sau các chuyến di tản cuối cùng. Phải chăng người ta muốn
dấy lên một vụ xì-căng-đăng chính trị?
Vụ kiện phát khởi ngày 29/4/1975.
Theo lời kể trong bản khai có tuyên thệ của bà Muoi McConnell gửi
lên Tòa án Liên bang quận hạt San Francisco vào ngày 17/9/1976 (gần một
năm rưỡi sau khi vụ kiện bắt đầu), bà Muoi McConnell trình bày lại vụ
việc rằng, vào năm 1975, có ba đứa trẻ (2 nữ, 1 nam) cùng là anh chị em
ruột người Việt có tên Nguyen da Yen, Nguyen da Vuong và Nguyen da Tuyen
được đưa đến Trại tiếp cư trung chuyển ở San Francisco. Lúc bấy giờ bà
Muoi McConnell đang là y tá trong Trại tiếp cư. Ba em trên nói với bà
Muoi McConnel là chúng còn mẹ, nhờ bà giúp tìm kiếm. Bà Muoi tâm sự: “Là
một người mẹ, tôi vô cùng xót xa về hoàn cảnh của các cháu bé ấy. Tôi
mường tượng rằng mình sẽ đau đớn biết bao nếu con cái mình bị thất lạc ở
một xứ sở khác mà không được ai giúp đoàn tụ với gia đình”. (Nguyên văn: As
a mother, I had strong feelings for these children. I could imagine how
distressed I would be if my children were lost in another country and
no one helped unite the family [14]).
Đó là khởi điểm vụ kiện xảy ra “ngày 29/4/1975 do một nhóm luật
sư phát động nhằm tìm cách chặn đứng các việc xin con nuôi đối với những
đứa trẻ Việt Nam di tản trong Chiến dịch Di tản Trẻ em – On April 29,
1975, a group of attorneys file a class-action lawsuit seeking to halt
the Babylift adoptions” [15].
Theo Cherie Clark, bà Muoi McConnell [16]
đồng hành cùng các luật sư suốt 16 tháng trời cả trong những lúc bà
chẳng hiểu gì cũng chẳng hề tán đồng những sự việc đã diễn ra. Bà nói bà
chỉ mong thấy mấy đứa trẻ được sớm sum họp với cha mẹ chúng hơn là để
tâm tới những phức tạp về mặt pháp lý. Nay thì nhiệm vụ của bà ngày càng
trở nên rắc rối và đó là lý do khiến bà quyết định tự rút tên khỏi vụ
án. Bà Muoi McConnell nêu rõ: “Tôi không muốn dính líu gì nữa với
những người lợi dụng tôi và tình cảm làm mẹ của tôi để đẩy xa hơn nữa
những tham vọng chính trị của họ.” (I do not wish any further
involvement with people who seem to be using me and my feelings as a
motherto further their political ambitions).
Bà Muoi McConnell, người đứng tên “nguyên cáo” nhân danh ba em bé
nói trên cùng “các trẻ VN khác”, tự ý rút tên khỏi đơn kiện. Thế là vụ
án được xếp và đóng lại.
Bà Cherie Clark nhận xét: “Vụ án không bao giờ xem xét tới nỗi
khổ đau và hoàn cảnh khắc nghiệt mà các người làm cha làm mẹ đã cam chịu
khi tự nguyện mang đi giao những đứa con của mình cho người khác. Tôi
không phải là người duy nhất đơn độc tin rằng vụ kiện bị tác động về mặt
chính trị và nó chẳng liên quan gì tới các em” [17].
III. Những cuộc công kích
1. Động cơ chính trị!
Cũng theo bà Cherie Clark, ngay thời điểm cuộc Di tản Trẻ em
đang tiến hành cũng đã xảy ra những cuộc vận động ồn ào đòi trả về Việt
Nam tất cả những trẻ em di tản mà người ta cho là đã bị bắt cóc chở đi
Mỹ. Tuy nhiên, bà cũng như các thành viên trong Hội có đủ cơ sở chứng
minh rằng không hề có một em bé Việt Nam nào bị bắt cóc hay bị cưỡng bức
rời khỏi đất nước các em, một đất nước đang rơi vào hỗn loạn cuối cuộc
chiến, và không ít trẻ em Việt Nam đã lâm vào tình thế vô vọng nhất cho
sự sống còn của chúng.
Về các cuộc vận động “đòi trả các trẻ di tản về VN” nêu trên, bà Cherie Clark lặp lại: “Đây
là một hành động bị tác động về mặt chính trị hoàn toàn bất xứng, thực
hiện bởi những cá nhân không hề có một chút hiểu biết nào về những gì
xảy ra tại Việt Nam vào thời điểm diễn ra cuộc di tản”. [18]
Mặt khác, một vụ kiện khác nhắm vào ông Henry Kissinger, Ngoại
trưởng Mỹ lúc bấy giờ, cùng một số viên chức cao cấp Mỹ hơn là nhắm vào
FCVN, về tội bắt cóc trẻ em: “Trẻ em Việt Nam bị Mỹ đưa đi Hoa Kỳ không phải chỉ là trẻ mồ côi mà còn có cả những trẻ bị bắt cóc khỏi tay cha mẹ chúng” [19]. Vụ kiện không lôi đích danh FCVN vào cuộc, nhưng FCVN nhận trách nhiệm về hoạt động di tản của mình.
Theo bà Cherie Clark, tuy vụ kiện đã được tuyên bố hủy bỏ vào ngày
13/02/1976, bà và Hội FCVN đã phải mất hơn 150 ngàn đô-la cho các chi
phí tố tụng và tiền thuê luật sư. Bà Clark kể lại: “Phí tổn của vụ
kiện là thảm họa. Chỉ riêng FCVN đã tốn hơn một trăm năm chục ngàn đô-la
chỉ để trình bày những chuyện thật của nỗ lực hoạt động nhân đạo này.
Các phí tổn lên cao tới mức FCVN buộc lòng hủy bỏ các chương trình tài
trợ nhân đạo, để dồn hết thời giờ và tiền bạc cần thiết vào vụ kiện” [20].
Bên cạnh đó, cũng theo bà Cherie Clark, “Đài phát thanh Hà Nội,
một đài phát thanh thuộc về Nhà nước cộng sản Miền Bắc, cũng đưa tin về
các nhóm tổ chức nhận con nuôi tại Miền Nam Việt Nam. Đài này tuyên bố
rằng bất cứ ai làm việc cho các tổ chức nhận con nuôi đều bị coi là tội
phạm chiến tranh” [21].
Không phải chỉ loa tuyên truyền CSVN từ đài phát thanh Hà Nội, mà
chính viên đại sứ CSVN tại Pháp (Sứ quán CSVN vừa mới được mở tại Pháp
sau 30/4/1975), vào ngày 9/5/1976 – khoảng 3 tháng sau khi vụ án bị xếp
lại, đã điện cho Miller người cầm đầu nhóm luật sư ở San Francisco khởi
kiện vụ án: “Chúng tôi yêu cầu Chính phủ Mỹ hãy trả về Miền Nam Việt
Nam các trẻ em đã bị người Mỹ đưa đi trái phép.” (We demand that the
United States government return to South Vietnam children illegally
removed by Americans.” (Dana Sachs, The Life We Were Given, p.192). CSVN đã chẳng tìm cách khuấy động lại vụ án cho mưu đồ chính trị đen tối của họ sao, dù rằng vụ án đã đóng?
Bà Cherie Clark cùng các thân hữu Việt-Mỹ trong FCVN trở thành
những “kẻ làm ơn mắc oán.” Cho nên thái độ thận trọng cảnh giác của ông
bà Clark và những người bạn Mỹ khác bây giờ dễ hiểu đối với vợ chồng tôi
và cũng rất đáng cảm thông. Chúng tôi rất ân hận đã có cái nhìn thiển
cận sinh ra ngộ nhận thiếu công bằng do suy diễn lệch lạc. Chúng tôi xác
nhận con chúng tôi di tản là do chính chúng tôi chủ động chứ không phải
do Hội FCVN. FCVN làm ơn mắc oán! Chúng tôi chẳng hề dựa vào thế lực
nào hay chạy chọt gì cho việc di tản của con tôi.
2. Di tản trẻ em… lợi bất cập hại?
Tới thời gian gần đây, vẫn có người tìm cách đặt lại vấn đề và đánh giá lại Chiến dịch Di tản trẻ em Việt Nam
năm 1975 theo nhãn quan của phe phái chính trị. Những kẻ ấy cho rằng số
phận các trẻ “bị” hay “được” di tản ấy cùng gia đình các em sẽ tốt hơn…
nếu các em vẫn ở lại đất mẹ Việt Nam thay vì di tản!
Dana Sachs tác giả quyển The Life We Were Given [22],
dường như đang được phía Nhà nước CSVN khai thác theo chiều hướng này
với mục đích phát động một lần nữa chiến dịch tuyên truyền vừa vu khống
đối phương, vừa chạy tội, vừa tự đề cao mình.
Phải chăng vì vậy mà nhân ngày 30/4/2013, Nhà Xuất Bản Trẻ ở Việt Nam đã tung ra bản dịch [23] tác phẩm trên dưới nhan đề “Những mảnh đời được ban tặng”? Rồi thì lập tức hàng loạt tờ báo lề đảng Việt Nam (như Tiền Phong, Sài Gòn Tiếp Thị, VNExpress [24]…) đua nhau viết bài “điểm sách” tuyên truyền kích thích quần chúng đọc tác phẩm.
Qua mấy bài viết trên các báo, tôi khám phá ra rằng phần lớn những
ghi nhận của họ không hẳn là từ cái nhìn của tác giả Dana Sachs, mà
chính xác là từ quan điểm của bộ máy tuyên truyền CSVN.
Một câu hỏi đặt ra ở đây là số phận các trẻ di tản có thực sự tốt
hơn nếu các em không bị “cưỡng bức” di tản, không bị “bứng” đi và nếu
các em còn được ở lại sống nơi quê nhà sau 30/4/1975?
3. Radio miệng – Mouth radio.
Tờ Sài Gòn Tiếp Thị có nói tới “radio miệng – mouth radio” mà tác giả Dana Sachs nêu ra nơi trang 12 quyển The Life We Were’re Given của bà, và người ta cho rằng cái “radio miệng” đã góp phần “bứng các đứa trẻ VN ra khỏi gốc rễ quê hương” của các em gây cho chúng luôn “trăn trở một câu hỏi tôi là ai, tôi từ đâu tới”.
Thật ra, tại Miền Nam Việt Nam trước 30/4/1975 cũng như bất cứ thời
nào hay ở đâu cũng có những thứ tin vỉa hè gọi là “radio miệng”. Nhưng
tại Miền Nam, nhất là tại Sài Gòn, “radio miệng” còn được kiểm chứng nhờ
sách báo, nhờ truyền thanh, truyền hình trong và ngoài nước cũng như
dựa vào cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, chứ đâu phải chỉ căn cứ vào
thứ “radio miệng” vốn là “vạ miệng” đối với người dân ở Miền Bắc xã hội
chủ nghĩa.
Quá khứ ở Việt Nam và tại các nước Cộng sản đã chứng minh Cộng sản
sắt máu như thế nào đối với đồng bào của mình, kể cả với con trẻ. “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ!”
Tố Hữu đã hò hét như vậy. Nhưng thời đó, thời đại HCM, đố ai dám xâm
mình “làm radio miệng”… khi mà hàng triệu người dân Miền Bắc xhcn đều bị
“khóa miệng”?
Mặt khác, chính trong những ngày cuối tháng 4/1975, sau khi cướp
đoạt đất nước Campuchia (16/4/1975), bọn Miên Cộng (Khờ-Me Đỏ) đã chẳng
thật sự tàn sát hàng triệu người dân Campuchia sao giống như CS Bắc Việt
đã gây nên cuộc thảm sát rùng rợn trên 6000 người dân vô tội tại Huế
hồi Tết Mậu Thân 1968 khi chúng vi phạm cuộc ngưng chiến Tết để xâm nhập
đánh cướp thành phố này? Sự thật ấy đâu phải từ “radio miệng”! Dân Miền
Nam đều nghe biết những tội ác man rợ ấy từ nhiều nguồn thông tin khác
nhau! Cả thế giới cũng biết! Đâu phải chỉ có sự thật khủng khiếp này mà
vô số sự thật khác người dân Miền Nam Việt Nam đều biết dù CS ém nhẹm
tới đâu. Chính vì vậy mà ngay sau tháng 4/1975, CS vội vàng ra lệnh tịch
thu toàn bộ máy thu thanh, máy truyền hình, máy chữ, máy đánh chữ đồng
thời thủ tiêu, đốt cháy mọi thứ tài liệu, sách báo ở Miền Nam Việt Nam!
4. Không tắm máu, nhưng rỉ máu trường kỳ.
Quả thật, sau 30/4/1975, Cộng sản Miền Bắc đã không mở ra một cuộc
tắm máu. Biến cố diệt chủng dã man ở Campuchia sau ngày 16/4/1975 gây
phẫn nộ cho công luận thế giới khiến CSVN chùn chân, không thực hiện
cuộc thảm sát dã man kiểu Mậu Thân Huế 1968 hay đấu tố tàn bạo kiểu Cải
Cách Ruộng Đất 1956 ở Miền Bắc. Lại nữa, chiến thắng mau chóng bất ngờ
của họ cũng đã làm cho họ lo sợ một cuộc phản công sống-chết nếu họ mạnh
tay gây đổ máu hàng loạt tại Miền Nam Việt Nam!
CSVN không tắm máu, nhưng toàn thể người dân VNCH tiếp tục rỉ máu.
Đặc biệt với trẻ em Miền Nam Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sự phân biệt
đối xử thật là tàn nhẫn và thô bạo nhắm riêng vào đám con em “ngụy quân,
ngụy quyền”, trẻ lai và con cái tín đồ tôn giáo! Các em bị phân biệt
đối xử, bị khinh ghét, xua đuổi bởi chính những đứa trẻ cùng tuổi các em
coi các em như những thứ ghẻ lở, cùi hủi phải loại trừ! Số phận các em
không khác gì số phận em bé sáu tuổi nêu trên.
Đọc The Unwanted – Kẻ Vô Thừa nhận của Kien Nguyen [25]
mới thấy rõ sự thật phũ phàng ấy nhan nhãn hàng ngày tại Việt Nam sau
30/4/1975. Đó là quyển tự truyện của một trẻ lai bị ruồng bỏ, khinh chê
và hất hủi tại Việt Nam vào thời điểm ấy, ít nhất cho tới khi các trẻ
lai được Hoa Kỳ đón nhận trở về quê cha, qua chương trình đoàn tụ con
lai bắt đầu hồi cuối thập niên 1980.
Kien Nguyen tức Nguyễn Kiên sinh năm 1967 tại Nha Trang, là trẻ
lai, mẹ Việt, cha Mỹ. Kiên rời Việt Nam năm 1985 để định cư tại Mỹ theo
Chương trình trên. Năm 2001, khi xuất bản quyển The Unwanted, Nguyễn Kiên đã là nha sĩ hành nghề tại trung tâm thành phố New York.
Cuốn tự truyện The Unwanted của Kien Nguyen đại khái như
sau: Kiên sinh ra trong một gia đình khá giả. Mẹ anh là một viên chức
cấp cao ngân hàng tại Nha Trang. Sau 30/4/1975, từ chỗ đang giàu có sung
túc, gia đình Kiên rơi vào nghèo đói cùng cực do chính sách phân biệt
đối xử bạo tàn của guồng máy chính quyền mới. Kiên bị hất hủi thậm tệ
bởi những người hàng xóm và cả bởi những người gia đình hay tộc họ với
mình khiến anh nhận ra bản thân anh chỉ là một đứa con vô thừa nhận chỉ
vì quá khứ gia đình Kiên liên hệ mật thiết với đế quốc Mỹ và bản thân
Kiên là tàn tích của đế quốc ác ôn ấy. Càng ngày Kiên càng bị ngược đãi
thô bạo… cho đến ngày anh được phía Mỹ chấp nhận cho định cư tại Hoa Kỳ
với tư cách tị nạn chính trị. Chính trên đất nước này, Kiên có cơ hội
làm lại cuộc đời, học hành tiến thân (bác sĩ nha khoa), hòa nhập vào
cộng đồng đa sắc dân và sống hạnh phúc.
Còn tại Việt Nam, ngay trong trường học, những lớp học “lịch sử” [26] là
những cơ hội để “nhà” dạy sử mạt sát kẻ thua trận và phát động chiến
dịch “thề uống máu quân thù”, “diệt tan bọn Mỹ-ngụy ác ôn” cùng những
tàn tích của “chúng”. Những bài học truyền bá đạo đức hận thù – gọi là
“đạo đức cách mạng” gây thù chuốc oán trong đầu óc trẻ con! Những “tàn
tích” mà các thầy cô dạy sử của chế độ nhắm tới chính là những trẻ lai
và con cái “của ngụy” đang hiện diện trong lớp. Chúng nó thập thò ở đằng
cuối lớp kia, gục đầu giấu mặt và thổn thức trong lòng.
Hồ sơ lý lịch học đường của các trẻ lai và con cái của “ngụy quân-
ngụy quyền” bị nhuộm đen. Các em bị xếp hạng chót trong bản xếp hạng
“thành phần đối tượng” và dĩ nhiên luôn bị phê hạnh kiểm (đạo đức) xấu!
Phần lớn những đứa trẻ xấu số này nếu không bị đuổi học, thì có ngày
cũng phải tự ý bỏ học, sống kiếp lang thang đầu đường xó chợ.
Còn đâu nữa cơ hội cho các em vươn lên?
Nếu không có trào lưu đổi mới bắt đầu từ Liên Xô hồi thập
niên 1980 và sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản hồi đầu thập niên 1990,
thì số phận các trẻ em “đối tượng” trên chắc chắn càng bi đát hơn, trừ
gia đình nào trốn ra khỏi nước hay ít ra con cái họ được gửi cho người
thân tín mang đi bằng đường biển hay đường rừng mà những cái chết thảm
luôn rình rập.
Có người lại bảo rằng, các trẻ di tản, tuy nhiều em lớn lên thành
công về mặt kiến thức và đời sống, nhưng vẫn chịu nhiều mất mát về mặt
tâm lý, tình cảm gia đình hay cội nguồn dân tộc!
Cuộc trốn chạy nào không mang theo một vài mất mát, nhiều hay ít,
dài hạn hay tạm thời? Thương tích nào không để lại vết sẹo dù đã được
chữa lành? Trên cõi đời này, đâu có gì là toàn vẹn! Nhưng suy cho cùng,
phần bù đắp cho những mất mát ấy lại cao gấp bội.
Riêng về những hạn chế hay bất cập của Chiến dịch Di tản Trẻ em năm 1975,
tôi cho đó là điều khó tránh khỏi đối với mọi tổ chức, huống hồ là một
tổ chức tự mình đứng ra đảm nhận một trách nhiệm hết sức nặng nề và cấp
bách của thời chiến và ngay dưới lằn tên mủi đạn.
Ít ra Chiến dịch ấy đã đạt được mục tiêu cứu vớt trẻ em nạn nhân
chiến tranh theo tôn chỉ của những người thiện chí hợp nhau lập thành Hội Bạn Của Thiếu Nhi Việt Nam (Friends of the Children of Viet Nam – FCVN) hay Hội bạn của mọi thiếu nhi (Friends For All Children – FFAC).
Vả lại, theo cái nhìn của tôi qua một số tài liệu về Trẻ em Nạn nhân Chiến tranh Việt Nam mà
tôi đọc được, những thiếu sót của Chiến dịch không đến nỗi gây tác hại
nghiêm trọng cho tương lai cuộc sống các trẻ di tản, ngoại trừ tai nạn
chiếc máy bay Galaxy-5A ngày 4/4/1975 ngoài mọi sự dự đoán và tinh toán.
Mặt khác, tình trạng thiếu hụt thực phẩm hay thuốc men hoặc vài
tiện nghi nào đó trong chuyến di tản của các trẻ cũng là những bất cập
khó tránh giữa cảnh bom rơi, đạn nổ không dứt.
IV. Lá rụng về cội
1) Tình cảm thiêng liêng và tình cảm dân tộc.
Nguyễn Vĩnh Nguyên của tờ Sài Gòn Tiếp Thị dựa vào quyển The Life We Were Given để đặt vấn đề rằng trong Chiến dịch Di tản “Có
rất nhiều đứa trẻ ra đi khi còn được bồng ngửa, không có ký ức, hình
dung về quê hương gốc gác. Cũng có những đứa đủ lớn để luôn đau đáu về
anh em, gia đình thất lạc. Và đã có những cuộc kiếm tìm, gặp gỡ đầy xót
xa… Ở mỗi cuộc đoàn tụ tưởng chừng may mắn đó, người ta lại một dịp đối
diện với vết sẹo chưa hẳn đã liền da của bi kịch gia đình.”
Tương tự, Dương Tử của báo VNExpress cũng xác quyết “Những
đứa trẻ còn rất nhỏ với vùng ký ức mờ nhòe luôn cố gắng để tìm lại lai
lịch nhưng gần như là không thể. Mặc dù nhiều người trong số đó được tạo
những điều kiện vật chất tốt để sinh trưởng, hiện có công việc ổn định,
thành đạt, nhưng trong họ luôn day dứt câu hỏi về nguồn gốc và những
người ruột thịt. Ngay cả cái tên thể hiện nguồn gốc Việt cũng rất ít
người giữ được.”
Là người trong cuộc, tôi nhìn nhận rằng về mặt văn hóa và tình cảm
gia đình theo truyền thống Việt Nam, các trẻ di tản trong đó có hai con
trai tôi quả đã có phần mất mát. Cuộc ly tán nào không để lại chấn
thương tâm lý cho cả người đi lẫn người ở lại, nhất là ly tán trong một
tình thế vô cùng bức bách, tuyệt vọng! Tuy nhiên điều ấy đối với tôi
không bao giờ là tấn bi kịch gia đình – ngoại trừ thời gian tôi chưa
biết con tôi đi đâu, sống lưu lạc nơi nào, bởi vì khi con tôi lạc mất,
tôi chỉ mong chúng sống ở một nơi nào chúng được hưởng một cuộc sống
đáng sống, cuộc sống có ý nghĩa, chúng “được tạo những điều kiện vật chất tốt để sinh trưởng, có công việc ổn định, thành đạt.” Ít ra chúng không bị đày đọa, không bị trù giập, không bị ức hiếp. Còn chuyện tình cảm là một vấn đề khác.
Hai đứa con trai tôi nếu ở lại với tôi tại Việt Nam, dĩ nhiên chúng
sẽ có được tình cảm chan hòa với cha mẹ và anh chị chúng, nhưng ai đoán
biết được tình cảm ấy tồn tại bao lâu khi mà những bài học về sự dối
trá và về lòng thù hận cứ rót vào tai tuổi trẻ, nhồi sọ chúng, dẫn dắt
chúng đi vào một kiểu sống không có ngày mai, không còn tôn ti trật tự
từ gia đình tới xã hội đến học đường!
Cho đến bây giờ, đọc báo chí Việt Nam – nhất là những tờ báo thuộc
dòng chính của đảng và nhà nước CSVN, tôi thấy rõ trên quê hương tôi
không còn đâu nữa cái giềng mối “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” giữa người
với người từ trong gia đình ra tới học đường, hàng xóm và xã hội rộng
lớn hơn.
Trong gia đình thì con cái ngỗ nghịch cha mẹ, thậm chí giết chết
ông bà cha mẹ chỉ vì một số tiền/vàng chẳng là bao. Anh em một nhà cấu
xé nhau, sát hại lẫn nhau cũng chỉ vì tranh nhau những mối lợi vật chất
rất nhỏ.
Nơi học đường thì thường xảy ra tình trạng cả thầy lẫn trò đua nhau
đánh mất giềng mối tốt đẹp thầy-trò của thời trước 1975. Nhiều lúc thầy
không ra thầy, trò không ra trò. Thầy hiếp đáp trò, trò đánh lại thầy.
Thậm chí cả nữ sinh, lẽ ra phải nhu mì hiền thục thì lại hung hãn đến
tàn bạo và “mất dạy” rũ nhau đánh hội đồng, lột áo quần bạn mình giữa
thanh thiên bạch nhật cho kẻ đi qua người đi lại tha hồ “chiêm ngưỡng”,
rồi thì những “bức tranh lõa thể sinh động” ấy lại được tung đầy trên
internet.
Hàng xóm thì hại nhau càng ngày nhiều, có khi chỉ vì tranh nhau một
vài thước đất dọc hàng rào. Những va chạm không đâu vào đâu lại dẫn tới
ẩu đả đâm chém nhau tàn nhẫn…Thậm chí có những cái nhìn gọi là “nhìn
đểu” dẫn đến chém giết nhau như đùa. Cán bộ công chức từ lớn tới nhỏ đua
nhau tham nhũng, thu vén làm giàu trên nỗi đau của dân nghèo, rồi lại
dựa thế ỷ quyền vu khống, chụp mũ cho dân, biến dân lành thành tội phạm!
Đó là chưa kể tới các tệ nạn xì ke ma túy, các vụ buôn bán phụ nữ và
trẻ em ra nước ngoài để làm tôi đòi hay làm “đồ chơi” cho ngoại quốc!
Có đổ lỗi được chăng cho tình trạng chia cắt gia đình vào những
ngày sau 30/4/1975? “Mất gốc” đó chăng? Ai làm cho con người trở nên đổ
đốn, “mất gốc”? Và ai trách nhiệm về những mất mát trên dẫn tới tình
trạng băng hoại và đảo lộn trật tự xã hội hiện nay tại Việt Nam? Sao
không chỉ thẳng thủ phạm mà cứ vòng vo, hết đổ lỗi cho “Mỹ-ngụy”, cho
tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-ngụy tới đổ thừa cho hậu quả chiến tranh,
trong khi những thứ đó đã lui vào dĩ vãng hàng 40 năm rồi còn gì? Bày ra
đủ thứ xây để cất túi, để ăn, để làm giàu, cố tình bỏ qua trách nhiệm
xây dựng con người, xây dựng ý thức đạo đức xã hội nơi con người, nhất
là con người trẻ. Đó chẳng phải là trọng tội đối với dân tộc và tiền đồ
đất nước sao?
Bài viết trên Sài Gòn Tiếp Thị còn nêu ra sự kiện “nhiều đứa trẻ [di tản] lớn lên hoang mang, khắc khoải trong việc dò tìm gốc gác của mình.” Từ đó tác giả bài báo dựa theo Dana Sachs đặt câu hỏi: “Liệu
những đứa trẻ đã được đưa đi có thực sự hạnh phúc hơn những đứa được ở
lại với đất nước của chúng và đối diện với sự thiếu thốn, nghiệt ngả của
những năm đầu hòa bình?”
Sống trong môi trường đa sắc dân, đa chủng tộc, đa văn hóa như ở
Hoa Kỳ, cả những con người thất học cũng luôn mang tâm trạng và xu hướng
tìm về cội nguồn dân tộc của mình. Huống hồ là các em Việt Nam di tản
lớn lên trên đất nước tạm dung (nay đã được chọn làm quê hương thứ hai),
hầu hết đều có ăn học, có sự nghiệp, càng để tâm tìm hiểu về gốc gác
cội nguồn và nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Sinh hoạt của thành phần
trẻ VN di tản năm 1975 nay vẫn còn tiếp diễn hằng năm tại Hoa Kỳ để các
em cùng nhau tìm hiểu về quê cha đất tổ, chẳng phải là một biểu hiện
đáng khích lệ của tinh thần “lá rụng về cội” sao?
Có những cô cậu lặn lội về nước tìm người ruột thịt của mình để nối
lại tình máu mủ. Điều đáng buồn là “bi kịch gia đình” đã một lần diễn
ra hồi tháng 4/1975 trong cảnh kẻ ở người đi hối hả, sợ sệt, giờ đây sau
nhiều chục năm xa cách bỗng dưng lại tái hiện dưới hình thái khác cười
ra nước mắt! Cụ thể, trong bầu khí đoàn tụ, đã nổi lên “tâm lý phức tạp”
đoạt ngôi, choán chỗ của tình cảm thiêng liêng.
Không phải do đứa con, đứa cháu “lạc mất nay tìm về”, mà là do một
số thân bằng quyến thuộc còn sống ở Việt Nam hiện nay coi tiền bạc là
“biểu thị của tình gia tộc”, đòi kẻ trở về phải có trách nhiệm… mở rộng
hầu bao để ban phát, gọi là báo hiếu, là “đền ơn, trả nghĩa”! Một đòi
hỏi “gây sốc” không nhỏ cho kẻ trở về, nhất là kẻ trở về ấy đã hấp thụ
một nền giáo dục khác, một nếp văn hóa văn minh khác, xa lạ với thứ “văn
hóa xin-cho” của Việt Nam sau 1975! Khi sự đòi hỏi không được đáp ứng
hay đáp ứng chưa đúng mức, thì lại sinh ra trách móc, chê bai, giận hờn…
dẫn tới lạnh nhạt, rồi mâu thuẫn nhau!
Chúng tôi không cho đó là hiện tượng phổ biến. Tuy nhiên, chỉ một ít trường hợp thôi cũng đã là nỗi đau! Phim “Người Con Gái Đà Nẵng” [27] phác họa thực trạng ấy.
2) Đâu là cõi phúc?
Về câu hỏi “liệu những đứa trẻ đã được đưa đi có thực sự hạnh phúc hơn…” tôi xin trả lời theo kinh nghiệm riêng gia đình chúng tôi.
Suốt nhiều năm đầu sau 30/4/1975, chúng tôi sống triền miên trong
đau khổ. Những đứa con còn lại với chúng tôi không hề thấy đâu là bóng
dáng của hạnh phúc. Cha chúng nó bị giam cầm trong chốn ngục tù lao
động. Mẹ chúng nó từ thành thị bị buộc về nông thôn nếu không muốn bị
cưỡng bách đi “lập nghiệp” ở vùng “Kinh Tế Mới” nơi rừng thiêng nước
độc. Ở nông thôn hay vùng KTM, người dân đều cứ phải gục đầu xuống gốc
rạ, cứ phải tay lấm chân bùn mà vẫn không tạo ra nổi cái ăn cái mặc cho
những đứa con còn lại của mình. Bản thân các cháu đến trường luôn luôn
bị bắt nạt, bị khinh miệt, bị xa lánh… chỉ vì là con của “ngụy ác ôn”!
Thật tội nghiệp!
Mãi cho đến khi rời khỏi đất nước ra đi định cư tại Hoa Kỳ, những
đứa con còn lại của tôi chưa đứa nào may mắn lãnh hội được một trình độ
học thức căn bản, do các cháu mang trên người cái bản án chung thân lý
lịch “con cảnh sát ngụy”.
Những đứa con còn lại với chúng tôi tại Việt Nam thật sự “giữa
đường đứt gánh” nếu chúng tôi không được đặt chân đến đất nước Hoa Kỳ để
đoàn tụ với hai đứa con trai thất lạc của chúng tôi. Và chính trên đất
nước Hoa Kỳ, con cái chúng tôi có được cơ hội nhanh chóng lập lại cuộc
sống, hấp thụ một nền giáo dục tân tiến phù hợp với năng khiếu của các
cháu, để chúng có điều kiện tiến thân cả về mặt tri thức lẫn đời sống xã
hội.
Cái gọi là “sự thiếu thốn, nghiệt ngả của những năm đầu hòa bình”
sự thật chỉ là một cách ngụy biện, một lối biện minh vớt vát cho chính
sách bần cùng hóa và chính sách ngu dân đánh vào người dân, mà dân
“ngụy” là mục tiêu người ta nhắm triệt hạ trước hết!
Việt Nam cho đến cuối thế kỷ 20 vẫn còn là một nhà tù khổng lồ kể
từ 30/4/1975! Người dân không thấy đâu là hòa bình, đâu là tự do, đâu là
hạnh phúc, mà chỉ thấy toàn những khinh miệt, mắng chửi, cấm đoán, tước
đoạt, chụp mũ, bắt bớ, tù đày, sát hại! Khủng bố kéo dài và giăng trải
khắp Miền Nam Việt Nam trên mọi lãnh vực từ tư tưởng, văn hóa cho tới
kinh tế, xã hội, chính trị và tôn giáo… Những “thiếu thốn nghiệt ngã”,
nghĩa là tình trạng đói rách khốn khổ cùng cực của người dân Miền Nam
sau 30/4/1975 đâu thể đổ lỗi cho hậu quả chiến tranh!
Một cảnh bi hài chỉ có ở trong các nước Cộng sản, đặc biệt CSVN, là
cảnh những đứa trẻ “hồ sơ trắng”, không là con lai, không là “con
ngụy”, thì đều “được dạy” làm điềm chỉ viên, mật báo viên, công an viên
mà cán bộ CS dùng cài đặt vào từng gia đình, từng trường học, từng ngõ
ngách xóm làng, khu phố, đâu đâu cũng tai vách mạch rừng, khiến mọi
người (trừ nhóm Cộng sản cầm quyền) đều sợ: sợ cả người cùng máu mủ ruột
thịt thân thiện nhất của mình. Hạnh phúc gia đình làm sao có được?
Trong tình trạng “cư không an” từ nhà ra ngõ do chế độ công an trị tạo
nên? Nỗi sợ đè nặng mọi người, mọi nhà, mọi cơ cấu xã hội. Nói cũng sợ,
ăn cũng sợ, mặc cũng sợ, quan hệ bạn bè với nhau cũng sợ, sử dụng tài
sản do mình làm ra cũng sợ!
Ai sao không biết, riêng tôi khi hai đứa con trai tôi rời khỏi tôi,
điều tôi mong mỏi không phải là tình cảm giữa tôi và chúng nó! Tôi đã
phải hy sinh tình cảm của mình! Miễn sao con mình có được một cuộc cuộc
sống đáng sống, tốt đẹp và hạnh phúc!
Hạnh phúc của con tôi chẳng phải là hạnh phúc của tôi và của cả gia đình tôi sao?
Phần kết: Lời tri ân
Là một tín hữu công giáo, tôi luôn xác tín rằng, không điều gì xảy
ra cho tôi và gia đình tôi mà không do Chúa an bài. Vì vậy, tôi không
ngừng “cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la” vì Người đã ban cho chúng tôi những điều kỳ diệu sau khi gửi đến cho chúng tôi một số thử thách.
Ngoài ra, tôi còn được nhiều quới nhân tận tình giúp đỡ, dù họ
không cùng là đồng bào với tôi, không hề chịu ơn tôi, thậm chí không hề
biết tôi là ai.
Dĩ nhiên, tôi không thể bỏ qua công lao cha mẹ nuôi của hai đứa con
tôi hết lòng chăm sóc con tôi và lo lắng mọi thứ cho gia đình chúng
tôi. Và còn biết bao ân nhân khác cứu giúp chúng tôi cách này hay cách
khác khi chúng tôi lâm cảnh khốn cùng.
Chúng tôi làm sao quên ơn Chính phủ và người dân Hoa Kỳ niềm nở đón
nhận gia đình chúng tôi, giúp chúng tôi có một cuộc sống tự do, an lành
và no cơm ấm áo trên miền đất tuy là đất tạm dung đối với chúng tôi,
những kẻ lưu vong tị nạn, nhưng cũng là mảnh đất mà chúng tôi đã quyết
chọn làm quê hương thứ hai của mình khi tự nguyện tuyên thệ làm công dân
Hiệp Chủng Quốc.
Nhờ sống trên nước Mỹ, chúng tôi mở rộng tầm nhìn của mình, không
bị vùi giập trong lạc hậu u tối do người ta tự hào trong hào quang chiến
thắng và trong ý thức hệ hận thù, mà đối xử phân biệt một cách tàn nhẫn
với những kẻ thua trận mà họ gọi xách mé là “bọn ngụy” cũng như đã hành
xử một cách độc ác thâm hiểm đối với con cái của những người này.
Bây giờ, thoát khỏi địa ngục kỳ thị trên đất nước tôi, hết thảy 6
người con của tôi, 3 trai, 3 gái đều được ăn học, có công việc làm ổn
định trong ngành nghệ thuật phù hợp với năng khiếu và kiến thức chuyên
môn mà chúng đã thâu thái từ học đường Mỹ.
(Tháng Ba 2015)
_______________________________________
Chú thích:
[1] “It’s not your fault that you left your country. We’re very, very happy to see you back here with us.”
[2]
We are wholly unable to see how [Hoang] Anh’s relinquishment of her
children to FCVN could be construed as an indication to abandon them. On
the contrary, her relentless search for them in this country
affirmatively manifests her intention to meet her parental duties and
obligations.” (p. 204).
[3]
“Even though I couldn’t understand what she was saying,” Anh said,
“there was this connection and closeness. She always said, ‘I love you!”
Even if my half-brother wasn’t there to translate and we couldn’t
understand each other, whe was holding my hand.” It was if, during the
panic of those last awful days of war, the frantic mother had held her
daughter in her hands, then set her loft to make her own way in the
world, like a fledgling bird. Now, after years of grief, she had lifted
he hands again, and pulled her child back toward her. (Dana Sachs,
p.225).
[4] Shirley Peck-Barnes. The War Cradle. Denver, Vintage Pressworks. 2000, Chapter X – Rainbow (pp.231-256).
[5] Nothing,
simple nothing calm the atmosphere. What the children were longing for,
the staff could not provide. They simple wanted their mothers, their
own mothers – not these people with strange faces who could ot speak
their language. (The War Cradle, p 238).
[6] Tác giả Shirley chỉ nêu là “Commanding General”, không cho biết Commanding (Tư lệnh/Chỉ huy) lực lượng hay đơn vị nào.
[7] Dana Sachs, The Life We Were Given (Boston, Massachusetts:Beacon Press books, 2010).
[8] Sài Gòn Tiếp Thị 30/4/2013: Nguyễn Vĩnh Nguyên.Những đứa tẻ trong chiến dịch không vận.
[9]
Hiện là Đức Ông Nguyễn Đức Tiến, nguyên giám đốc Nguyệt san Hiệp Nhất
kiêm Giám đốc Trung Tâm Công Giáo VN Giáo phận Orange County, đang hưu
dưỡng tại Nam California.
[10] Cherie Clark. After Sorrow Comes Joy. Westminster, CO. Lawrence & Thomas Publishing House, 2000.
[11] Cherie Clark, -nt- trang 155-156.
[12] Lời giải thích của bà Cherie Clark, sau này tôi lại đọc được trong quyển hồi ký After Sorrow Comes Joy của bà nơi trang 23.
[13] Cherie Clark, -nt- trang 179.
[14] Cherie Clark, -nt- trang 214.
[15] Dana Sachs, The Life We Were Given. Boston, Bacon Press,2010., p. 190.
[16]
Theo Dana Sachs, chính Bà Muoi McConnell đứng tên nguyên đơn nhân danh
ba em bé VN: “NGUYEN DA YEN, NGUYEN A VUONG, and NGUYEN DA TUYEN, on
their own behalf and on behalf of all others similarly situated, by
their guardian item, MUOI MCCONNELL, Plaintiffs v. HENRY KISSINGER;
JAMES SCHLESINGER; EDWARD LEVI;COL. ROBERT KANE; COL. JASPER HORN; MARIO
OBLEDO, Defendants.” (The Life We Were Given, p.190).
[17]
Nguyên văn: “The lawsuit never took into consideration the pain and
hardship that the parents endured in voluntarily relinquishing their
children. I was not alone in my belief that the lawsuit was political
motivated and had nothing to do with the children”
[18]
Nguyên văn: “This is a politically motivated case without merit,
brought by individuals who did not have the slightest comprehension of
what was going on in Viet Nam at the time of the airlift.”
[19]
Cherie Clark, -nt- trang 174. Ngoài ra, tác giả Dana Sachs nêu rõ: “Rõ
ràng, vụ kiện nhắm kết tội những kẻ nắm quyền lực ở đẳng cấp cao nhất
tại Hoa Thịnh Đốn – Obviously, the case aimed to incriminate those in
highest echelons of power in Washington.” (The Life We Were Given,
p.190).
[20]
Nguyên văn: The costs of the lawsuit were catastrophic. FCVN alone
spent in excess of $150,000 attempting to show the true story of this
humanitarian effort. The costs eventually mounted to such a high level
that FCVN was forced to abandon humanitarian aid programs, spending
much-needed time and cash on the lawsuit instead. (Cherie Clark, -nt-
trang 208).
[21]
Cherie Clark, -nt- trang 183. Nguyên văn: “Radio Hanoi, the communist
state radio station, was broadcasting information about the adioption
Groups in South Vietnam. The broadcasts claimed that anybody who worked
with the adoption agencies would be considered war criminals.”
[22] Dana Sachs, The Life We Were Given (Boston, Massachusetts:Beacon Press books, 2010).
[23] “Những mảnh đời được ban tặng”. Người dịch: Hoàng Nhương
[24]
Tiền Phong 30/4/2013: (P.V.).Sách về Chiến dịch Không vận Trẻ em Việt
Nam 1975. Sài Gòn Tiếp Thị 30/4/2013: Nguyễn Vĩnh Nguyên. Những đứa tẻ
trong chiến dịch không vận. VNExpress 30/4/2013: Dương Tử. Chiến dịch
không vận Trẻ em VN 1975 Những mảnh đời bị đánh cắp.
[25] Kien Nguyen. The Unwanted, a Memoir of Childhood, Little Brown & Co. (2001).
[26]
Các thầy cô giáo môn sử của VNCH sau 30/4/1975 bị đuổi khỏi ngành giáo
dục cùng với các thầy cô phụ trách môn Việt văn, sinh ngữ và công dân
giáo dục…
[27]
Daughter from Danang. Phim tài liệu của PBS bắt đầu bằng các tài liệu
liên quan đến những chuyến bay di tản trẻ em mồ côi và cả trẻ em có cha
mẹ, được gửi đi Hoa Kỳ làm con nuôi vào những ngày cuối tháng 4 nãm
1975. Một trong các em bé năm 75 nay đã hơn 30 tuổi, lai Mỹ, tình cờ tìm
được tin tức bà mẹ và gia đình hiện ở Đà Nẵng. Sợi dây tình nghĩa mong
manh được nối lại.
Câu chuyện kể lại tâm sự bà mẹ ở Việt Nam và cô con gái lai ở Mỹ.
Cô bé không còn biết tiếng Việt, không còn nhân dáng Việt, không biết
tin tức về người cha là lính Mỹ một thời ở miền Trung. Cô kết hôn với
một Mỹ và đang có hai con. Bà mẹ Việt Nam ở Đà Nẵng ngày nay kết hợp lại
với người chồng Việt Nam cũ, có nhiều con trai và gái, dĩ nhiên là anh
chị em một mẹ khác cha với cô gái lai đã d itản sang Hoa Kỳ năm 1975
trong 1 chuyến bay của Operation Babylift.
Cả nhà chờ đợi ngày về thăm quê của người con gái Đà Nẵng. Đó là
chuyến trở về quê hương lần đầu và rất có thể là lần duy nhất. Hình ảnh
gia đình Việt Nam ở Đà Nẵng là hình ảnh rất thông thường như đa số người
Việt hiện nay đã biết. Đại gia đình nhiều anh em, bần hàn nhưng không
quá nghèo đói. Hoàn cảnh gia đình cô gái lai tại Hoa Kỳ cũng thuộc giới
trung lưu, không giàu có gì. Tất cả đều là các nhân vật thật, đóng lại
cuộc đời của họ.
Tuy nhiên rõ ràng là hai nếp sống khác biệt. Cô gái lai trở về tuy
đã có chuẩn bị học nói những lời thương yêu bằng Việt ngữ: “Con yêu mẹ.
Con xin chào mẹ v.v…” Nhưng cô đang ở tâm trạng tò mò và không hề được
hướng dẫn tâm tư cho việc đoàn tụ. Đó có thể là diễn tiến tự nhiên, hoặc
là đạo diễn muốn câu chuyện cứ xẩy ra như vậy.
Sau buổi gặp gỡ cảm động tại phi trường, tiếp đến những ngày sống
bên nhau tuy ngắn ngủi nhưng rất nhiều gượng gạo. […]Trong câu chuyện kể
lại, các anh chị nói về những ngày thơ ấu, vất vả nuôi cô em lai, rồi
lo cho bà mẹ mà cô gái đã bỏ lại. Đã có những lời lẽ kể công và những
đòi hỏi ràng buộc trách nhiệm mà cô gái lai ngày nay, đã hoàn toàn trở
thành một phụ nữ Mỹ, không thể cảm nhận được.
[…] Các anh chị em, qua thông dịch viên, đã đặt thẳng vấn đề yêu
cầu cô em lai đưa mẹ qua Mỹ để lo cho bà có cuộc sống đã từ lâu mong
đợi. Ngay bây giờ, cô em gái cần cho biết mỗi tháng cô giúp cho gia đình
được bao nhiêu.Và người con gái Đà Nẵng không thể hứa hẹn, không thể
tài trợ được, nên đã gần như khóc lóc và bỏ chạy.
Câu chuyện đưa đến kết luận là đám bà con nghèo khổ ở Việt Nam chỉ
nhìn thấy người ở Mỹ là một cái kho bạc. Họ chỉ nã tiền. Tất cả lời nói
tình cảm thương yêu đều là đầu môi chót lưỡi. Đó không phải là thương
yêu thực.
_________________________________________
…Thời gian nhận bài xúc tiến từ bây giờ và sẽ tiếp tục chọn đăng
trên diễn đàn Danlambao cho đến hết ngày 25/4/2015. Đóng góp tác phẩm dự
thi xin gởi về: Congsanvatoi@gmail.com. Để biết thêm chi tiết, xin đọc:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét