Lê Diễn Đức - RFA
Lại một 30 tháng Tư về!
39 năm, 40 năm và có thể còn lâu hơn, chúng ta mới có cơ hội xem
xét lại ngày lịch sử này một cách nghiêm túc, công bằng và hợp lý.
Cái ngày mang tính bước ngoặt của lịch sử, "có triệu nguời vui và
cũng có triệu người buồn". Đất nước thống nhất nhưng lại rơi vào vòng
cai quản của chế độ cộng sản, độc quyền, toàn trị, vong bản và phi dân
chủ.
Suốt từ năm 1954 trên miền Bắc và từ 30 tháng Tư năm 1975 trên cả
nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền, đưa đất nước đi trên con
đường "định hướng xã hội chủ nghĩa" vô định.
Bộ máy phát xít
Bộ máy cầm quyền chuyên chính vô sản của ĐCSVN là một dạng thức của
chủ nghĩa phát xít. Tôi nói như thế là vì hai hệ thống chính trị (phát
xít và cộng sản) có nhiều điểm tương đồng.
Trong đối nội và đối ngoại của cả hai hệ thống áp dụng chính sách
khủng bố, đe dọa công chúng. Anh ninh, mật vụ theo dõi toàn bộ xã hội,
tìm mọi cách loại bỏ bất kỳ đối thủ chính trị nào. Những ai bị xem là kẻ
thù đều bị kết án và giam giữ trong các trại cải tạo lao động. Với
phương pháp khủng bố, bẩm báo, gieo rắc nghị kị, nhà cầm quyền đã tạo ra
một không khí sợ hãi, không chỉ với kẻ thù mà với cả những người ủng hộ
chế độ.
Cũng giống như chủ nghĩa phát xít, chế độ cộng sản thành lập tổ
chức thanh niên, dạy dỗ họ rằng đất nước của họ là tươi đẹp nhất và nhồi
sọ ý thức hệ toàn trị. Đối với đảng, thanh niên là một tài sản lớn, bởi
vì họ là tương lai.
Cả hai hệ thống duy trì một chế độ độc tài, độc đảng, cấm mọi sự tồn tại của các đảng phái chính trị khác.
Bộ máy quyền lực của hai hệ thống được xây dựng dựa trên nguyên tắc
cực kỳ tập trung. Công tác tuyên truyền hết sức quan trọng trong một
nhà nước độc tài toàn trị. Nhà cầm quyền sử dụng nó để trưng diễn bộ mặt
và có thể làm thay đổi thế giới.
Chủ nghĩa độc tài toàn trị hạn chế các quyền cơ bản của con người,
ức chế sự phát triển của văn hóa, giáo dục và các giá trị tinh thần của
dân tộc, đồng thời gây ra các vụ giết người hàng loạt. Trong mười thập
kỷ qua, nhân loại đã trải qua nhiều đau thương, làm thay đổi khái niệm
tổng thể về con người và nền văn minh. Chúng đã tác động lớn lên lịch sử
và đời sống của nhân dân. Lý do chính của việc này là lợi ích của nhà
nước độc tài quan trọng hơn cuộc sống của con người.
ĐCSVN còn đi xa hơn, tệ hại hơn cả chủ nghĩa phát xít. Công an giả
mạo thường dân hoặc sử dụng dân phòng, thậm chí giới giang hồ, xã hội
đen, côn đồ hoá và lưu manh hoá sự đàn áp.
Ngày 24 tháng 1 năm 2006, Với 99 phiếu thuận và 42 phiếu chống, các
nước thành viên Nghị viện châu Âu đã phán quyết chủ nghĩa cộng sản là
tội ác của nhân loại.
Tại Ba Lan, một nuớc cựu cộng sản, ở Điều 13 của Hiến pháp mới năm
1997 đặt chủ nghĩa cộng sản bên cạnh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc và cấm mọi hình thức hoạt động, tuyên truyền cho các chủ
nghĩa này.
Hoà hợp hoà giải
Không thể hoà hợp hoà giải khi còn chế độ cộng sản. Chế độ này
không có nhu cầu hoà hợp hoà giải, mà chỉ làm những động tác lừa mị, dối
trá.
Bản thân giữa người Việt với nhau không cần bất kỳ sự hoà giải nào.
Hàng năm vẫn có hàng trăm ngàn người Việt từ nước ngoài về thăm quê
hương, sinh hoạt bình thường trong cộng đồng. Không có lòng căm thù lẫn
nhau trong dân chúng mà chỉ có nỗi đau và lòng căm thù đối với chế độ
cộng sản.
Thật khôi hài, gần đây, Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao,
Chủ tịch Uỷ Ban người Việt ở nước ngoài, gọi những người tị nạn cộng sản
là "nạn nhân của chiến tranh"!
Trừ một số chạy cộng sản trước và trong ngày 30 tháng Tư năm 1975,
sau ngày này, cả nước hoà bình, thống nhất, làm gì còn chiến tranh nữa!
Thế nhưng, hàng triệu người đã vượt biển, vượt rừng, bỏ nước ra đi, để
lại sau lưng khoảng nửa triệu xác chết. Họ không phải là "nạn nhân của
chiến tranh" mà là nạn nhân của chính sách giam giữ cải tạo hàng trăm
ngàn quân dân cán chính của chế độ Sài Gòn, của chính sách cải tạo công
thương nghiệp, tập đoàn hoá nông nghiệp, ngăn sông cấm chợ, cưỡng bức đi
kinh tế mới, phân biết đối xử khắt khe với những ai liên quan đến
"ngụy"...
Làm sao để có dân chủ
Nếu so với giai đoạn cách đây khoảng một thập niên thì tình hình xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển tích cực hơn.
Năm 2002, Lê Chí Quang chỉ vì những bài báo cảnh giác âm mưu thôn
tính Việt Nam của Trung Quốc, mà đã bị kết án nặng nề 4 năm tù, bị đối
xữ tệ hại khi bị bệnh, rồi bị chiêu dụ và vô hiệu hoá. Những cảnh báo
của Lê Chí Quang đã hoàn toàn chính xác với cuộc tổng xâm luợc mềm của
Trung Quốc hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam.
Cùng một thời gian ấy, bác sĩ Phạm Hồng Sơn chỉ vì đã dịch bài "Thế
nào là dân chủ" lấy từ trang Web của Toà đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội mà
bị kết án "tội gián điệp" với 13 năm tù (phiên tòa phúc thẩm giảm từ 13
năm tù xuống còn 5 năm tù, 3 năm quản chế).
Xã hội Việt Nam giờ đây trưởng thành hơn về ý thức dân chủ và quyền
con người. Có nhiều hơn những người dân trong nước ca thán chế độ và
phản ứng bất thuận với các chính sách của nhà cầm quyền trên mạng xã hội
mà không bị trấn áp.
Một số hội đoàn dân sự ra đời bất chấp ngăn cấm của chế độ như Hội
Cựu Tù nhân Luơng tâm, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Văn đoàn độc lập,
Hiệp hội Dân oan Việt Nam, Mạng lưới Bloggers Việt Nam..., mặc dù chưa
có, hoặc không công khai ban lãnh đạo, hoạt động chưa có tổ chức quy củ,
và đa phần đang ở trạng thái vận động, chưa kết tụ thành phong trào xã
hội rộng lớn.
Nhà cầm quyền trong tiến trình hội nhập toàn cầu, vì những lợi ích
kinh tế, bị áp lực quốc tế, lúc này lúc khác có vẻ "thoáng" hơn một cách
khôn ngoan, nhưng vẫn giữ vững thái độ chính trị kiên quyết và dứt
khoát với các đối tượng được xem là có thể tạo ra nguy cơ cho chế độ.
Người Việt ở hải ngoại có vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc
thông tin và vận động quốc tế, nhưng đất nước đổi thay hay không phụ
thuộc vào người dân trong nuớc. Thực tế của các nước cựu cộng sản Đông
Âu cho thấy các đảng phái chính trị ở hải ngoại khó mà tìm được vị trí
trên sân khấu chính trị khi Việt Nam có bầu cử tự do.
Chỉ khi nào các phong trào dân sự thật sự đi vào lòng người, lan
toả rộng khắp, đặc biệt trong hơn 70% dân số sống ở nông thôn và dân lao
động thành thị, lúc đó mới có khả năng nổ ra một cuộc cách mạng thay
đổi.
Dân chủ sẽ có khi lực lượng đối lập hình thành, áp lực xã hội lớn,
cuộc tranh đấu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới nền kinh tế của
đất nước. Lúc đó buộc nhà cầm quyền phải đối thoại và chuyển hướng.
Hoàn cảnh thực tế cho thấy không thể dùng biện pháp bạo lực để
chuyển hoá chế độ mà chỉ có thể bằng sức mạnh của các cuộc xuống đường
bất bạo động, nhiều khi phải chịu hy sinh, tổn thất; song song là sự ứng
xử tỉnh táo, sáng suốt của những người đang nằm trong bộ máy cầm quyền.
Hai yếu tố này chắc chắn phải đi đôi với nhau thì mới tránh một cuộc đổ
máu không cần thiết. Hệ thống chính trị lạc hậu và ảo tưởng "định hướng
xã hội chủ nghĩa" phải được huỷ bỏ toàn diện để thay thế bằng một thể
chế khác tiến bộ hơn.
Kết luận
Xã hội bị băng hoại đạo đức, thói vô trách nhiệm của nhà cầm quyền,
tư tưởng cam phận nô lệ, tội phạm gia tăng mọi nơi, tham nhũng ở mức độ
thành những đường dây mafia, nợ nần của đất nước chồng chất... Tuy
nhiên, trong những khó khăn ấy, nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn kiểm soát
được và vẫn không ngừng sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng,
độc quyền để tuyên truyền, ngu tối hoá xã hội, và gia tăng bạo lực để
củng cố và duy trì chế độ.
39 năm, một thời gian đủ dài dồn nén bất công, chán chường và phi
lý để có thể bùng phát một cuộc cách mạng, nhưng nó vẫn nằm trong hy
vọng và có lẽ còn phải trải qua khá lâu nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét