DCVOnline
Jim Steinberg, Mike O’Hanlon – Trà Mi lược dịch
Mỹ sẽ phản ứng ra sao nếu Trung Quốc đơn phương xâm lấn lãnh thổ ở sân sau?
… và các chiến lược khác để giữ mối quan hệ song phương quan trọng nhất thế giới
Chuẩn bị cho chuyến đi châu Á tuần này,
Tổng thống Barack Obama hẳn không chỉ suy nghĩ đến những câu hỏi về
chính sách tái cân bằng hay đóng chốt ở châu Á, mà còn về cuộc khủng
hoảng hiện nay tại Ukraine.
Các nhà lãnh đạo mà Obama sẽ gặp tại Nam
Hàn, Nhật Bản, Malaysia, và Philippines sẽ bận tâm với những gì có thể
xẩy ra ở châu Á hiện đang là vấn đề đang thách thức châu Âu: Hoa Kỳ và
các nước đồng minh sẽ làm gì để có thể đối phó với một nước lớn trong
khu vực ngày càng quyết đoán? Nói thẳng ra – như các nhà lãnh đạo ở châu
Á chắc chắn sẽ nói trong những cuộc trao đổi riêng của họ với Obama –
Mỹ sẽ phản ứng ra sao nếu Trung Quốc đơn phương xâm lấn lãnh thổ ở sân
sau?
Chiến lược của chính quyền Mỹ thay đổi
tại Đông Á trong năm 2011 được xây dựng trên hai cột trụ. Đầu tiên, Hoa
Kỳ sẽ theo đuổi lợi ích lâu dài trong hòa bình và ổn định ở Đông Á bằng
sự cam kết bền vững với các đồng minh của Mỹ; thứ hai, Mỹ sẽ xây dựng
một mối quan hệ mang tính hợp tác xây dựng với một Trung Quốc đang lên,
cùng lúc tôn trọng sự khác biệt.
Về lý thuyết, chiến lược này đã tính đến
ảnh hưởng tất nhiên của một Trung Quốc đang lớn mạnh tại Đông Á đồng
thời giảm thiểu những nguy hiểm mà những quan hệ đó sẽ đưa đến sự mất ổn
định hoặc ngay cả xung đột có thể có trong khu vực. Nhưng trong những
tháng gần đây, Trung Quốc đã tiếp tục tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở biển
Đông và biển Nam Trung Quốc, thì tính khả thi của chiến lược này đang
được đưa vào thử thách. Hành động đơn phương của Trung Quốc – kể cả
tuyên bố hồi tháng 11 về một khu vực xác định phòng không ở Biển Đông
Trung Quốc trong đó có quần đảo Senkaku đang trong vòng tranh chấp hiện
do Nhật Bản quản lý (mà Bắc Kinh tuyên bố là của họ và gọi đó là đảo
Điếu Ngư), và việc ngăn chặn thuyền tiếp vận cho Thủy quân lục chiến
Philippine ở Bãi Cỏ Mây – đã làm các nước láng giềng của Trung Quốc e sợ
và đặt câu hỏi tái cân bằng nghĩa là gì trước những hành động gây hấn
kể trên.
Chính quyền Obama đã lặp đi lặp lại quan
điểm không thiên về bên nào trong mọi tranh chấp chủ quyền, nhưng phản
đối việc sử dụng vũ lực hoặc cưỡng chế để giải quyết vấn đề. Và Hoa Kỳ
đã khẳng định sẽ giữ những cam kết hiệp ước với Nhật Bản và Philippines.
Nhưng điều đó không dẫn đến tiến bộ nào đáng kể. Nguy cơ xung đột vẫn
còn cao.
Tình hình ở châu Á phức tạp hơn ở
Ukraine, nơi mà Hoa Kỳ không có hiệp ước an ninh song phương nhưng đã
tuyên bố rõ ràng rằng Nga đã vi phạm chủ quyền của Ukraine. Ngược lại,
trong khi Mỹ có trách nhiệm rõ rệt về hiệp ước với đồng minh ở Đông Á,
họ cũng công nhận các quốc gia trong vùng khác nhau về chủ quyền lãnh
thổ. Và bằng cách không thiên vị Mỹ thừa nhận một tình trạng không rõ
ràng.
Hoa Kỳ có thể từ bỏ thế trung lập và
nghiêng về phía Nhật Bản và Philippines trong những tranh chấp lãnh thổ,
ngăn chận sự phiêu lưu của Trung Quốc. Nhưng hành động như vậy chỉ làm
tăng thêm thêm sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và không nhất
thiết có thể khiên Bắc Kinh sẽ có ứng xử ngoại giao hơn với các nước
láng giềng. Chọn lựa đó có nguy cơ lập lại lịch sử như thời Chiến tranh
Lạnh – một kết quả mà không một quốc gia đối tác nào của Hoa Kỳ trong
khu vực hoan nghênh, vì nền kinh tế tương sinh của họ với Trung Quốc
hiện nay.
Thay vào đó, một chính sách toàn diện
hơn cho những kiến tạo thay đổi của Đông Á là điều cần thiết: phải xem
những tranh chấp lãnh thổ không là một vấn đề riêng rẽ, mà cần giải
quyết vấn đề cơ bản hầu đối phó với một cường quốc đang lên.
Đã bốn mươi năm kể từ chuyến đi lịch sử
của Tổng thống Nixon năm 1972, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc
phần lớn là quan hệ hợp tác. Một Trung Quốc yếu ít gây ra những mối đe
dọa cho Hoa Kỳ và đồng minh cùng lúc cung cấp một thị trường ngày càng
lớn cho hàng hóa của Mỹ, một nguồn hàng nhập khẩu rẻ tiền cho người tiêu
dùng ở Mỹ, và một đối tác trong cuộc đấu tranh để kiềm chế Liên Xô.
Nhưng khi liên kết chiến lược dựa trên
mối quan tâm chung về Liên Xô đã hết, cùng với khả năng quân sự ngày
càng tăng của Trung Quốc nhờ nền kinh tế phát triển ngoạn mục, cả hai
bên ngày càng phải suy nghĩ nhiều hơn về tính bền vững của hợp tác
Mỹ-Trung. Nhiều người ở Trung Quốc xem chiến lược tái cân bằng của Mỹ là
chính sách kiềm chế ngụy trang, trong khi nhiều người ở Hoa Kỳ coi sự
hiện đại hóa quân đội Trung Quốc và sự quyết đoán đòi chủ quyền lãnh thổ
là những dấu hiệu rõ ràng Bắc Kinh đang tìm cách làm suy yếu liên minh
của Hoa Kỳ và muốn đuổi Mỹ ra khỏi vùng Tây Thái Bình Dương. Kết quả hứa
hẹn là một bi kịch quen thuộc: sự căng thẳng ngày càng tăng sẽ dẫn đến
xung đột không có lợi cho ai. Và với tiềm năng lớn về kinh tế của Trung
Quốc và xung lượng đang có, Trung Quốc hiện có thể là một đối thủ ghê
gớm hơn Nga, dù Nga có vũ khí hạt nhân.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề nghị
giải quyết vấn đề bằng cách xây dựng “lòng tin chiến lược”, và “một
hình thức mới của mối quan hệ giữa các cường quốc”. Nhưng vấn đề này lại
dẫn đến câu hỏi quan trọng nhất: làm thế nào để xây dựng lòng tin, và
loại quan hệ nào mà Hoa Kỳ và Trung Quốc mong muốn có? Thách thức này
trở nên bí hiểm hơn khi không ai biết ý định lâu dài của cả hai bên.
Chuẩn bị để đối phó với một tương lai bấp bênh và thường sẽ đi đến tồi
tệ là điều tốt nhất.
Để giải quyết tình trạng khó xử này, Mỹ
cần một chiến lược rõ ràng. Chúng tôi đề nghị chiến lược có tên là “Kiên
quyết và tái cam ddoan”.
Chiến tranh thường xẩy ra vì những đánh
giá sai lầm về về quyết tâm của nước khác. Ở Đông Á, và giữa Trung Quốc
và Hoa Kỳ, Chiến tranh Triều Tiên đã chứng minh những gì có thể xẩy ra
khi một bên tính sai quyết tâm của đối phương. Hoa Kỳ cần phải biểu
dương một cách rõ ràng về quyết tâm để bảo vệ lợi ích sống còn của Mỹ.
Và trong bối cảnh hiện tại của khu vực Đông Á, không còn gì quan trọng
hơn là các cam kết với đồng minh. Để tránh những đánh giá sai lầm, Hoa
Kỳ phải giữ vững uy tín trước trách nhiệm hiệp ước với đồng minh, bằng
cả lời nói – như chính quyền đã tuyên bố rõ ràng rằng quần đảo Senkaku
thuộc trách nhiệm hỗ trợ đồng minh Nhật Bản của Mỹ dựa trên hiệp ước an
ninh Mỹ- Nhật Bản – và trong cả hành động.
Điều này không có nghĩa là Washington
phải rút kiếm ra khỏi vỏ ngay lập tức nếu căng thẳng leo thang vì những
hành động của Trung Quốc gần quần đảo Senkaku hay vùng đảo đang tranh
chấp ở Biển Đông, nhưng Hoa Kỳ phải cho mọi bên hiểu rõ rằng Mỹ sẵng
sàng áp đặt một giá đáng kể nếu lằn đỏ bị vượt qua – đó là lý do tại sao
phản ứng trước hành động gây hấn của Nga ở Ukraine rất nổi bật với tình
hình ở Đông Á.
Đồng minh của Mỹ ở châu Á lo ngại rằng
khả năng của Trung Quốc áp đặt cái giá kinh tế mà Hoa Kỳ phải trả có thể
làm Washington thoái chí – mối quan tâm trở nên trầm trọng hơn vì Mỹ và
châu Âu đang quá thận trọng trong việc áp đặt giá mà Nga phải trả cho
việc xâm lấn Ukraine. Đợt cấm vận cuối tháng Ba để trừng phạt Nga phần
nào trấn an các đồng minh là Mỹ sẵn sàng chấp nhận những rủi ro khi bị
trả đũa kinh tế để áp đặt giá phải trả cho ai vượt qua lằn đỏ. Đồng minh
của Mỹ tiếp tục theo dõi khít khao xem liệu các mối đe dọa cấm vận rộng
lớn có trở thành hiện thực hơn trong trường hợp Nga tiếp tục lấn chiếm.
Nhưng bày tỏ quyết tâm chỉ là một phần
của một chiến lược để ổn định quan hệ Mỹ-Trung Quốc. Mỹ và đồng minh đều
muốn tái cam đoan với Trung Quốc là nếu Bắc Kinh ứng xử có trách nhiệm
thì họ sẽ không ngăn cản tương lai thịnh vượng và an ninh của Trung
Quốc. Sự quyết tâm phải được cân bằng bằng cách xây dựng lòng tin thích
hợp, gồm cả việc sẵn sàng để tham gia vào những thỏa ước giúp cho mọi
bên đều đáng tin cậy hơn vì những thiện ý. Đây có thể là thỏa ước “Bầu
trời mở”, một thỏa thuận về trinh sát, cho phép cả hai bên được phép bay
qua lãnh thổ của nhau để giảm bớt những nghi ngại về những điều còn bí
mật; có những thỏa thuận để giải quyết các sự kiện trên biển để giảm bớt
nguy hiểm trong những cuộc đụng độ tình cờ nhưng bị có thể hiểu là
những hành động cố tình khiêu khích, cho dù có hay không; và hạn chế các
hoạt động gây mất ổn định trên không, chẳng hạn như sự cố tình phá hủy
những phi thuyền.
Cũng quan trọng như thỏa ước chính thức
là sự tự kiềm chế của hai bên trong những hành động tự vệ có thể được
xem là hành động đe dọa; tăng cường tính minh bạch để xóa tan những hiểu
lầm; và đáp lại những ứng xử tích cực để dựng một vòng tròn đạo đức
phát triển tự tin. Điều này có thể có nghĩa là Trung Quốc cần sẵn sàng
giảm tốc độ tăng cường quân sự thay vì tiếp tục chạy đua vũ trang. Và
với Hoa Kỳ có nghĩa là Mỹ có thể cần thay đổi khái niệm Trận chiến
Không-Hải của mình, với một tên lành tính hơn vis dụ như Hoạt động
Không-Hải và một chính sách toàn diện hơn khi phải áp dụng, nhấn mạnh
các mục tiêu phòng thủ thay vì những chiến dịch tấn công – mà một số ở
Trung Quốc coi là khả năng để đánh phủ đầu, để ra đòn hạ thủ. Cả hai bên
cần phải sửa đổi và phối hợp lại kế hoạch dự phòng ở những nơi như bán
đảo Đại Hàn, để giảm thiểu sự nguy hiểm của việc leo thang không cần
thiết.
Đây là một nhật ký công tác đầy tham
vọng. Nhưng nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ hy vọng tránh được sự cạnh tranh
ngày càng tăng, thường thấy trong tương tác giữa một cường quốc và một
nước đang lên, thì nỗ lực này là điều cần thiết. Một sự kết hợp đúng đắn
của chiến lược tái cam kết và sự quyết tâm có thể cứu được mối quan hệ
Mỹ-Trung Quốc ra khỏi con xoáy mất lòng tin, như mối quan hệ Mỹ-Nga hiện
nay, và giữ cho quan hệ đó không đi vào những hiểm họa lớn hơn nữa.
© 2014 DCVOnline(Việt Nam không phải là một đồng minh trong vùng Đông Nam châu Á, và cũng không có hiệp ước an ninh nào với Mỹ. – TM)
Nguồn: Don’t Be a Menace to South (China Sea). By Jim Steinberg, Mike O’hanlon. Foreign Policy. April 21, 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét