S.T.T.D Tưởng Năng Tiến -RFA
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
“Ngày 21/7 vừa qua, trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ở
New York, Ngoại trưởng Hà Lan, ông Frans Timmermans đã có bài phát biểu
vô cùng xúc động về vụ việc chiếc máy bay MH17 gặp nạn tại miền Đông
Ukraine, khiến toàn bộ 298 người thiệt mạng.
Trong suốt bài phát biểu của mình, khóe mắt ông Frans Timmermans
luôn chực trào nước mắt khi bày tỏ sự choáng váng, bàng hoàng trước quy
trình xử lý thi thể các nạn nhân cũng như hàng loạt những thông tin
nhiễu loạn xung quanh vụ MH17.”
Những dòng chữ trên được trích dẫn từ trang Dân Luận,
đọc được vào hôm 27 tháng 7 năm 2014, cùng với lời dẫn nhập
(hay nói chính xác hơn là nỗi băn khoăn) của ban biên tập:
“Bài phát biểu xúc động của vị chính khách một nước dân chủ phương
tây, thể hiện rõ rằng đất nước của họ luôn quan ngại, lo lắng xót xa cho
tính mạng người dân của mình. Không giống như tại Việt Nam, tính mạng
của người dân không được quan tâm, đảm bảo, luôn bị đe dọa ở khắp nơi
ngay cả ở những nơi công quyền, ví dụ như đồn công an. Chúng tôi tự hỏi,
liệu các vị nguyên thủ quốc gia Việt Nam sẽ như thế nào nếu có xảy ra
tình huống tương tự?”
Câu trả lời cho nghi vấn thượng dẫn, thực ra, đã có sẵn (cũng trên trang Dân Luận) từ hai ngày trước – hôm 25 tháng 7 năm 2014 – qua một đoạn văn ngắn của tác giả Nguyệt Quỳnh:
Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
như:“ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của
Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau
đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng
đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối;
không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những
giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những “cột bia
xi măng” vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ
thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những “cột gỗ mục” vô giá trị.
Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi
vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những
“cột mốc sống dở chết dở” ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các “cột mốc còn
sống” khác ra khơi trở lại.
Tàu đánh cá việt nam mang số hiệu QNa 90152 bị tàu Trung quốc
đâm chìm khi đang đánh bắt hợp pháp trên vùng biển Hoàng Sa, chủ quyền
Việt Nam, chiều 26/5/2014. Nguồn ảnh và chú thích: RFA
Những cột mốc sống, cột bia xi măng, cột gỗ mục … ở biển Đông – hôm nay – khiến tôi nhớ đến “Những Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo,” trong cuộc chiến vừa qua:
“Sinh ra trong một gia đình nghèo có bảy chị em. Là con cả, ngày
ngày Ðinh Thị Thu Hiệp phải lo bắt tép, mò ốc đỡ đần mẹ cha nuôi các em
khôn lớn. Ðến tuổi thanh niên, chị theo phong trào ‘Ba sẵn sàng’ xung
phong lên đường, nhưng địa phương không duyệt vì thân hình quá nhỏ.
Không còn cách nào khác, chị đã viết đơn vào trận tuyến bằng máu với tất
cả tình cảm thống thiết để được kết nạp vào đội hình TNXP và được phân
công về làm nhiệm vụ ở đèo Ðá Ðẽo.
Ngày đó, đèo Ðá Ðẽo được xem như lằn ranh giữa sự sống và cái chết,
là yết hầu của tuyến chi viện chiến lược 15A vào Nam. Từ năm 1967,
không quân Mỹ đã thực hiện chiến dịch 97 ngày đêm xóa trắng, vùi lấp đèo
Ðá Ðẽo, Ðinh Thị Thu Hiệp đã không ngần ngại bám sát mặt đường từng
ngày, từng giờ, đếm từng quả bom rơi, vác từng thùng đạn chạy băng qua
bãi bom nổ chậm. Chỉ nặng chưa đầy 40 kg nhưng lúc đó vác trên mình
những kiện hàng, thùng đạn vượt bãi bom dài hơn cây số chạy băng đến
điểm tập kết an toàn.
Cuối năm 1967, khúc cua 516+300 mái phía tây đèo Ðá Ðẽo thường xuyên
trúng bom nổ chậm, nhiều người không có kinh nghiệm tiếp cận bom đã
thiệt mạng. Cấp trên giao Ðinh Thị Thu Hiệp chốt giữ trọng điểm nóng đó
nhằm bảo đảm thông tuyến nhanh nhất cho xe ra tiền tuyến.Ngày đầu tiên,
một quả bom nổ chậm rơi đúng tim đường. Lập tức chị yêu cầu mọi người
tản ra xa, một mình chị vào kích nổ quả bom. Khi công việc hoàn thành,
vừa trở ra khoảng 150 m thì bom nổ, chị bị sức ép khiến một tai bị điếc.
Một lần khác, một đoàn xe chở hàng ra mặt trận bị ứ lại do vướng bãi
bom ở chân đèo Ðá Ðẽo. Mọi người chưa biết làm sao thông tuyến, trong
khi tiếng gọi chiến trường đang hết sức cần kíp thì chị Hiệp đã nhanh
trí, quyết định biến mình thành cọc tiêu sống đưa đoàn xe 20 chiếc vượt
qua bãi bom an toàn…
Sau những thành tích trong chiến tranh, chị vinh dự được Nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1972. Hòa bình, chị
trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng…” (Hương Giang. “Cọc Tiêu
Sống Trên Đèo Đá Đẽo.” Nhân Dân 7 July 2010.)
Có vô số những chị Đinh Thu Hiệp (khác) đã vùi thây trong
bom đạn, hoặc không bao giờ còn có thể “trở về sống bình dị với
ruộng nương, xóm làng …” mà nhà báo Hương Giang không biết hay
không … dám biết.
Các chị bị lãng quên, và chỉ được nhắc đến – với rất
nhiều xót sa, cùng với sự trân trọng – bởi một người ngoại
cuộc (*) bằng một thiên tiểu luận [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)]
đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên
diễn đàn talawas. Chúng tôi xin phép ghi lại vài trích đoạn –
ngăn ngắn – để rộng đường dư luận, cùng với ước mong được xem
đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả, cùng dịch giả:
– Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một
vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng
lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ
cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa.
Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như
câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý. Đối với những học sinh nữ ở
các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc
lặt vặt trong gia đình, hay còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn
sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội. Sau khi được tập hợp và biên
chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa.
– Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ nữ Việt Nam
không những không bị cấm ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt trận.
Các cô gái TNXP trực tiếp tham gia chiến đấu, đặc biệt là trên đường
mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân chủ lực, và với những người
trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là nhiệm vụ chính thức.
Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới giữa bộ đội nơi
tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực lượng hậu
cần cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến,
nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc biệt do một số lý do: độ tuổi
tuyển mộ quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được chuẩn bị chút nào, và
cách thức quản lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng với họ. Sĩ
quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng
nặng nề bởi những đau đớn khủng khiếp thường nhật của các cô gái làm
việc cùng họ, hoặc dưới quyền họ, phải chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm
màn im lặng phủ kiến, bởi người ta muốn đây phải là cuộc chiến tranh
nhân dân.
Sau “cuộc chiến tranh nhân dân” kể trên – nếu sống sót – những cành lan trong rừng cháy, những đoá hoa nhầu nát,
hay những quả chanh khô (theo như cách nói của đời thường) sẽ
trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con,
không nhà, và không chế độ!
Một mái nhà ở “xóm không chồng.” Nguồn ảnh:Báo Mới
Và cái lọai “chiến tranh nhân dân” (bất nhân) này vẫn đang
tiếp diễn ở Việt Nam với những ngư dân làm cột mốc sống giữa
biển khơi, thay cho những thanh niên xung phong (như cột tiêu sống)
trên mọi nẻo đường đầy dẫy bom đạn – giữa thế kỷ trước. Và
ai mà “lỡ dại” lên tiếng than phiền về thái độ vô trách nhiệm
của những kẻ cầm quyền thì thế nào cũng bị nhốt tù, như
trường hợp của nhà báo Tạ Phong Tần:
Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh
Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay, tàu cá TQ
xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân báo
về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo
Trường Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu
cá TQ khai thác trong vùng biển nước ta”.
Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư dân báo về”
chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện. Câu “ngư dân báo
về” khiến người đọc hình dung ra bối cảnh lúc đó ngư dân với những
chiếc tàu nhỏ bé trang bị thô sơ đang ở ngoài biển xa đối mặt với tàu to
đùng tối tân của Trung Quốc, còn lực lượng có chức năng bảo vệ ngư
trường, ngư dân và lãnh hải thì ngồi trong bờ… chờ nghe báo cáo.
Tôi không rõ những vị lãnh đạo đất nước Việt Nam hiện nay như qúi ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm,
hay ông Đại Tá Nguyễn Trọng Huyền có bị vấn đề về não bộ
hoặc trí nhớ hay không nhưng tôi biết chắc (chắn) điều này: cái
thời mà qúi vị huyễn hoặc và lừa mị để đẩy dân Việt vào
chỗ chết (rồi thản nhiên phủi tay) đã qua rồi. Không ai có thể
lường gạt mọi người mãi mãi.
Tưởng Năng Tiến
(*) Chú thích của talawas:
François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện
Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại
Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông
nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và
về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng
Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế,
“Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale
superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn
Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker,
Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch
(từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét