Trần Gia Phụng (Danlambao)
– Trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974 tuy
ngắn ngủi nhưng là trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt và ngày nay trở
thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của người Việt. Để thấy rõ các
điểm nầy, xin đặt lại trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến Việt Nam
vừa qua.
Về cuộc chiến 1946-1954, Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tuyên
truyền rằng đó là cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân. Thật ra, vấn
đề không đơn giản như vậy. Nguyên khi ra mắt chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội do mặt trận Việt Minh (VM)
và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra ba
lời thề, trong đó lời thề thứ ba là sẽ chống Pháp đến cùng nếu Pháp trở
lui nước ta. Tuy nhiên khi Pháp trở lui, sợ Pháp lật đổ, mất quyền lãnh
đạo, đồng thời để rảnh tay tiêu diệt các thanh phần đối lập, HCM không
chống Pháp như lời thề ngày 2-9, mà thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp định Sơ
bộ ngày 6-3-1946, đặt Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên
Hiệp Pháp, nghĩa là hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp ở Đông
Dương. Chẳng những thế, để được chắc chắn yên thân hơn, HCM còn qua
Paris, xin ký với Pháp Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946.
Hiệp ước nầy để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chánh, giao
thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam. Như thế, rõ ràng, HCM cùng mặt
trận VM và đảng CSĐD phản bội có hệ thống lời thề chống Pháp trước dân
chúng ngày 2-9-1945.
Khi quân đội Pháp đến Hà Nội khá đông, xảy ra những cuộc đụng độ
giữa quân Pháp và VM. Pháp yêu cầu VM phải để cho quân đội Pháp kiểm
soát an ninh ở Hà Nội. Nếu để cho Pháp kiểm soát an ninh thì lãnh đạo
đảng CSĐD và chính phủ VM đang ở Hà Nội, hoàn toàn nằm trong tay Pháp.
Lo sợ bị bắt giữ, nhưng cũng không còn thương thuyết được với Pháp, HCM
bí mật họp Trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày 18
và 19-2-1946, để tham khảo ý kiến. Không hỏi ý kiến Quốc hội (đại diện
toàn dân) hay Ban Thường vụ Quốc hội, dù Ban Thường vụ Quốc hội luôn
luôn có mặt ở Hà Nội, Trung ương đảng CSĐD quyết định tuyên chiến với
Pháp, để có lý do chính đáng bỏ trốn khỏi Hà Nội.
Cũng không tham khảo Quốc hội, Trung ương đảng CSĐD còn thông qua
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai
toàn dân. Lúc đó, dân Việt chưa biết nhiều về HCM và đảng CSĐD. Dân Việt
vốn có lòng yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, nên khi nghe lời
kêu gọi kháng chiến, liền đứng lên đáp lời sông núi mà không biết là đã
bị HCM và đảng CSĐD lừa phỉnh, lợi dụng. Nhiều người tản cư vì tránh
chiến tranh chứ không phải theo CS, vì chẳng bao lâu sau đó, họ hồi cư
về thành rất đông.
Như thế, cuộc chiến bùng nổ tối 19-12-1946 là cuộc chiến do đảng
CSĐD gây ra, vì quyền lợi sống còn của đảng CS, giữa đảng CSĐD với Pháp,
chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với Pháp. Nếu kháng chiến chống
Pháp vì lòng yêu nước, thì phải giữ lời thề chống Pháp ngay khi Pháp mới
trở lại Việt Nam, chứ không thương thuyết, ký thỏa ước với Pháp, rồi
khi đảng CSĐD bị đe dọa, mới chống Pháp.
Trong khi đó, đảng CSĐD tiếp tục cuộc tiêu diệt những thành phần
theo chủ nghĩa dân tộc, không cộng sản, từ thành phố đến nông thôn. Tại
thành phố, những nhân vật nổi tiếng bị VM giết đã nhiều. Tại nông thôn,
trong mỗi làng, VM thủ tiêu ít nhất từ 5 đến 10 người, thì trên toàn
quốc Việt Nam, tổng cộng số người bị VM giết có thể lên đến vài trăm
ngàn người. Không thể ngồi chờ để bị giết, vì bản năng sinh tồn, những
thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, ở
thế chẳng đặng đừng phải liên kết với Pháp chống CS, thành lập chính
thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) năm 1949.
Từ năm 1949, chiến tranh giữa VMCS với Pháp trở thành chiến tranh ý
thức hệ giữa người cộng sản với người quốc gia, kéo dài đến năm 1954
mới chấm dứt bằng hiệp định Genève (20-7-1954), chia hai Việt Nam tại vĩ
tuyến 17: VNDCCH ở phía bắc, còn gọi là Bắc Việt Nam (BVN) và QGVN ở
phía nam, còn gọi là Nam Việt Nam (NVN). Rõ ràng cuộc chiến nầy không
phải là cuộc chiến chống ngoại xâm.
Cuộc chiến thứ hai 1960-1975 cũng do đảng CSĐD, dưới tên mới là
đảng Lao Động (LĐ), cố tình gây hấn nhằm thôn tính NVN và bành trướng
chủ nghĩa CS. Nguyên hiệp định Genève chỉ có tính cách thuần túy quân
sự, không đưa ra giải pháp chính trị. Giải pháp chính trị được nói đến
tại điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề
lập lại hòa bình ở Đông Dương”, theo đó cuộc tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước dự tính sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956. Tuy nhiên, bản tuyên
bố nầy chỉ được hội nghị thông qua bằng miệng, chứ không có chữ ký của
bất cứ phái đoàn nào cả, nghĩa là bản tuyên bố chỉ có tính cách gợi ý,
chứ không có tính cách cưỡng hành, không bắt buộc thi hành.
Sau hiệp định Genève, VNDCCH hay BVN cài người, giấu súng ở lại
miền Nam, vi phạm hiệp định Genève, nhưng BVN lại lấy cớ VNCH hay NVN
không chấp nhận tổng tuyển cử, không tôn trọng hiệp định Genève, phát
động chiến tranh lần nữa, xâm lăng NVN vào cuối 1960. Lần nầy, núp dưới
chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, Lê Duẫn, thư ký thứ nhứt đảng LĐ tức đảng
CSĐD, xác định mục tiêu chiến tranh là đánh cho TC, đánh cho Liên Xô.
Câu nói của Lê Duẫn khái quát hết sức đầy đủ mục đích chiến tranh của
BVN, làm tay sai cho LX, TC, và làm nhiệm vụ quốc tế CS.
Như thế, cả hai cuộc chiến 1946-1954 và 1960-1975 đều không chống
ngoại xâm, mà chỉ do CS cố tình gây ra nội chiến để bảo vệ quyền lực và
mở rộng quyền lực, bành trướng chủ nghĩa CS, làm tay sai cho CSQT. Có
thể nói cả hai cuộc chiến đều là hai cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn,
còn tệ hại hơn cuộc nội chiến thời Nam Bắc phân tranh vào thế kỷ 17, vì
CSVN lồng chủ nghĩa Mác xít vào cuộc nội chiến, tiêu diệt văn hóa dân
tộc, làm tổn hại và tê liệt đất nước.
Trận chiến chống ngoại xâm
Đảng CSĐD rồi đảng LĐ thành công trong chiến tranh từ 1946 đến 1975
là nhờ viện trợ lớn lao của khối quốc tế cộng sản (QTCS), trong đó quan
trọng là TC. Ngay từ đầu, TC viện trợ cho CSVN một cách hào phóng không
phải vì nghĩa vụ QTCS, mà vì hậu ý thâm hiểm, điển hình là tuyên cáo về
lãnh hải của TC ngày 4-9-1958, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trên Biển Đông, trong khi thực tế hai quần đảo nầy thuộc Việt
Nam từ lâu đời và theo hiệp định Genève, thuộc NVN vì ở phía nam vĩ
tuyến 17.
Để đáp lại, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng (PVĐ) đưa ra công hàm
ngày 14-9-1958 thừa nhận bản tuyên cáo đó, nghĩa là thừa nhận Hoàng Sa
và Trường Sa là của TC, nhắm hai mục đích: 1) Trả nợ cũ thời chiến tranh
1946-1954. 2) Chuẩn bị vay nợ mới để tiến đánh VNCH hay NVN. Thật vậy,
tháng 10-1959, PVĐ qua Bắc Kinh cầu viện TC. Tháng 11-1959, TC đưa một
phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần
thiết của BVN. Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và TC họp ở Hà Nội và Bắc Kinh
để thảo luận chiến lược tấn công NVN (1). Sửa soạn xong xuôi, BVN triệu
tập Đại hội III đảng LĐ tháng 9-1960, quyết định tấn công NVN.
Các lãnh tụ TC không khác gì các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn
luôn nuôi mộng bành trướng xuống ĐNÁ. Lịch sử cho thấy quân đội Trung
Hoa không thắng được quân đội Đại Việt trên đường bộ, nên lần nầy TC
nghĩ đến chiến lược khác, nhìn ra Biển Đông để tìm đường xuống ĐNA.
Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951, TC nhờ Liên Xô đưa ra đòi
hỏi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC, nhưng bị bác bỏ. Trong
khi đó, chính phủ QGVN lên tiếng xác nhận chủ quyền hai quần đảo nầy là
của QGVN, thì không bị hội nghị phản đối. Sau đó, năm 1958 Mao Trạch
Đông tuyên bố rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái
Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (“Now the Pacific
Ocean is not peaceful. It can only be peaceful when we take it over.”) (2). Trong cuộc họp với đại diện đảng LĐVN năm 1963, MTĐ nói: “Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.” Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSTQ, MTĐ tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được ĐNÁ, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (3)
Thời cơ thuận tiện cho TC hành động khi Hoa Kỳ (HK) mở cửa cho TC
vào Liên Hiệp Quốc (LHQ) năm 1971, bắt tay với TC năm 1972, ký thông cáo
chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, quyết định rút hết quân khỏi Việt Nam
cuối năm nầy và cắt giảm viện trợ cho VNCH. Nhân vào đầu năm 1974, VNCH
bận rộn chống đỡ những cuộc tấn công mạnh mẽ của CSVN sau hiệp định
Paris (27-1-1973), TC đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH trên Biển Đông ngày
19-1-1974.
Tuy biết lực lượng không cân sức, nhưng Hải quân VNCH vẫn cương
quyết bảo vệ Hoàng Sa. Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng đội xông pha chống
ngoại xâm và hy sinh trên chiến trường. Trận Hoàng Sa chứng tỏ rõ ràng
VNCH không phải là tay sai của HK. Dù HK bỏ rơi VNCH và bắt tay với TC,
quân đội VNCH vẫn cương quyết chống TC, bảo vệ quê hương. Trận chiến
Hoàng Sa chứng tỏ lòng yêu nước của quân lực VNCH, chiến đấu bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước.
Sau trận Hoàng Sa, VNDCCH hay BVN không phản đối TC. Tuy không có
mặt trong trận Hoàng Sa, nhưng BVN là kẻ dẫn đường cho TC đến Hoàng Sa
vì công hàm PVĐ ngày 14-9-1958 đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
TC. Hơn nữa, chẳng những BVN vay nợ TC, mà tháng 6-1965 BVN còn nhờ TC
gởi qua BVN 320,000 quân để bảo vệ các tỉnh thành phía bắc trong khi
quân đội CSVN kéo xuống phía nam (4). Thật là ngu xuẩn khi nhờ cậy một
tên ăn cướp giữ nhà, mà tên ăn cướp nầy vốn là kẻ thù truyền kiếp của
dân tộc Việt Nam, đã nhiều lần cướp phá nước ta.
Đây là lần đầu tiên TC chiếm được hải đảo của Việt Nam, đột phá
xuống Biển Đông, nhằm kiếm đường tiến xuống Đông Nam Á (ĐNA). Đặt trận
Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến 1946-1975, mới thấy rõ trận Hoàng Sa
là trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt, do VNCH cương quyết chống TC xâm
lăng.
Biểu tượng hội tụ lòng yêu nước
Trước đây, chế độ CS kiểm soát chặt chẽ truyền thông, bưng bít tin
tức, tuyên truyền và tố cáo VNCH là ngụy quân, ngụy quyền, làm “tay sai
đế quốc Mỹ”, còn Mỹ là “đế quốc xâm lược”. Chế độ CS cũng che giấu công
hàm PVĐ và trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Dân chúng dưới chế độ CS trước
1975 hoàn toàn không biết tin tức ngoài thông tin CS. Trong những năm
gần đây, TC đe dọa Biển Đông, vấn đề Hoàng Sa rộ lên trở lại. Nhờ truyền
thông điện tử (Internet) phát triển rộng rãi, dân chúng mới biết được
sự thật lịch sử. Từ đó dân chúng trong nước nhận ra các điều quan trọng
làm thay đổi nhận thức của dân chúng:
1) Chế độ VNCH và quân lực VNCH không tấn công BVN, mà chỉ ở thế tự
vệ, chiến đấu chống cuộc xâm lăng của BVN, bảo vệ quê hương, tự do, độc
lập cho chính mình, chiến đấu chống TC chống ngoại xâm, quyết tâm bảo
vệ Hoàng Sa, không làm tay sai cho bất cứ ngoại bang nào. VNCH và quân
lực VNCH rõ ràng là một chế độ chính nghĩa và một quân lực chính nghĩa.
2) Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hoa Kỳ (HK) là “đế quốc xâm lược”, nên CSVN mở cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”.
Ngày nay dân Việt nhận biết rằng HK không phải là đế quốc xâm lược. Hoa
Kỳ không xâm lăng nước nào, mà còn giúp nhiều nước sau thế chiến thứ
hai như Đức, Nhật Bản, Triều Tiên phục hưng kinh tế. Hoa Kỳ đến NVN để
giúp NVN xây dựng và phát triển sau 1954. Khi BVN tấn công NVN năm 1960,
thì 5 năm sau, HK mới đem quân vào NVN năm 1965, giúp NVN tự vệ chống
BVN tràn xuống NVN, chứ HK không xâm lăng NVN và cũng không xâm lăng
BVN. Hoa Kỳ dùng máy bay tấn công BVN chỉ nhằm mục đích chận đứng cuộc
xâm lăng của BVN vào NVN.
3) Chế độ CSVN định nghĩa rằng “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Gần đây, ngày 29-12-2014, tổng bí thư đảng CSVN nói tại Đại hội 7 Hội Liên Hiệp Thanh Niên tại Hà Nội rằng thanh niên “có “tâm” là có lòng yêu nước, yêu chế độ”.
Tuy nhiên, chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện
nay ở trong nước, về đối nội thì độc tài đảng trị, áp bức và tham nhũng;
về đối ngoại thì làm tay sai cho TC, càng ngày càng làm mất đất, mất
đảo, mất biển. Như thế yêu XHCN, yêu chế độ CS chỉ là tiếp tục bị cảnh
độc tài, áp bức, tham nhũng, dân oan và chế độ XHCN tiếp tục bán nước
chứ không phải là yêu nước. Nói cách khác, yêu XHCN là phản quốc chứ
không yêu nước.
4) CSVN tuyên truyền rằng TC là một nước XHCN anh em. Đã là anh em
XHCN với nhau, sao TC lại ức hiếp nhau, chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển
của nhau? Như vậy, TC không thân hữu như lời CSVN tuyên truyền, mà TC
lộ nguyên hình là kẻ thù xâm lược truyền kiếp như vua chúa Trung Hoa
ngày xưa.
Ngày nay, nhờ Internet, tầm nhìn của dân chúng trong nước mở rộng
và hiểu rõ các điểm trên đây, hiểu rõ tình hình chính trị. Từ đó đồng
bào hết sức ca tụng lý tưởng tự do dân chủ và độc lập của VNCH, ca tụng
quân đội VNCH, ca tụng trận chiến Hoàng Sa chống TC xâm lược. Các
bloggers và Facebooker diễn tả hết sức sống động tâm tình của dân chúng.
Ví dụ sinh viên Lê Trung Thành đã viết: “Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc.” (5). Một nhà tranh đấu trẻ tuổi khác thì đề cao chính nghĩa quân đội VNCH, và đi đến kết luận: “Tôi gọi họ là những anh hùng.” (6). Tương tự như thế, một người dân Hà Nội viết: “Người
ta gọi các anh là “quân ngụy”/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa /
Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ / Bởi các anh ngã xuống vì Hoàng Sa.” (7). Còn rất nhiều ví dụ mà chúng ta không thể trưng dẫn hết ở đây.
Vì vậy, có thể nói trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974 chống ngoại xâm trở
thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước của toàn thể người Việt ngày nay.
Qua thế kỷ 21, khuynh hướng chung trên thế giới khuyến khích những cuộc
tranh đấu bất bạo động hơn là việc sử dụng bạo lực. Người Việt Hải
ngoại chúng ta hãy tích cực yểm trợ tinh thần cũng như yểm trợ vật chất
tất cả những cuộc tranh đấu bất bạo động của dân chúng trong nước, đòi
hỏi tự do dân chủ, nhân quyền và dân quyền, nhằm đi đến giải thế chế độ
CSVN.
Thử nhìn về tương lai
Thế là TC đã chiếm được Hoàng Sa. Là người Việt Nam, ai cũng muốn
giành lại lãnh thổ đã mất. Trong hiện tình đất nước, giành lại Hoàng Sa
thật là khó khăn vì phải qua hai cửa ải, hai giai đoạn.
Thứ nhứt là CHXHCNVN. Về pháp lý, tuy nắm được đầy đủ hồ sơ, tài
liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, nhưng CHXHCNVN
không dám kiện TC ra Tòa án quốc tế để đòi lại Hoàng Sa. Ngày
19-11-2014, thủ tướng CSVN chỉ dám tuyên bố “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Sau đó, ngày 11-12-2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CHXHCNVN ra tuyên
bố đề nghị Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of
Arbitration) Liên Hiệp Quốc tại La Haye (Hòa Lan) quan tâm đến các quyền
lợi và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông. Hành động nầy được
nhà bình luận người Úc Carlyle Thayer gọi là CHXHCNVN “lách bằng cửa
sau” vào vụ kiện giữa Phi Luật Tân và TC. (RFI 12-12-2014).
Trong khi đó, CSVN thẳng tay đàn áp những cuộc biểu tình, những
bloggers, facebooker chống TC, trấn áp tinh thần yêu nước của dân chúng.
Vì vậy nếu còn CSVN thì không bao giờ có thể đòi lại Hoàng Sa mà phải
dứt khoát chấm dứt chế độ CSVN, mới thoát ra khỏi những cam kết ngầm của
HCM khi cầu viện TC năm 1950, hủy bỏ công hàm PVĐ ngày 14-9-1958, chấm
dứt mật ước Thành Đô của tập đoàn Nguyễn Văn Linh năm 1990, chấm dứt
cảnh lệ thuộc TC, mới có thể chống TC và kiện TC ra tòa án quốc tế. Hiện
nay ở trong nước, dân chúng đang truyền nhau câu đồng dao: “Con ơi nhớ lấy lời cha, / Hễ còn cộng sản, Hoàng Sa còn Tàu.”
Thứ hai là TC. Hiện nay, TC mới trỗi dậy và rất hưng thịnh. Tuy
nhiên trong sự hưng thịnh hiện nay, về đối nội TC cũng gặp bất ổn vì dân
chúng trong nước ngấm ngầm tranh đấu chống độc tài, và vì các sắc dân
chung quanh bị TC sáp nhập như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng
luôn luôn tìm cách nổi lên đòi độc lập.
Về đối ngoại, chính vì đang hưng thịnh, quá tự tin, TC càng ngày
càng hung hăng trên Biển Đông, chẳng những khiêu khích đe dọa các nước
láng giềng, mà vào tháng 5-2009, TC gởi cho tổng thư ký LHQ một công hàm
yêu cầu chuyển cho tất cả hội viên LHQ, rằng TC có chủ quyền không thể
tranh cãi đối với các hải đảo trên Biển Đông và các vùng biển liền kề,
kèm theo bản đồ 9 khúc do TC thực hiện, nối liền các hải đảo mà TC tự
cho là của TC trên Biển Đông. (Sách báo thường gọi đường 9 khúc là đường
chữ U hay Lưỡi bò.) Năm 2011, TC gởi cho LHQ một công hàm nữa, cũng gần
giống công hàm trước, yêu cầu thông báo cho toàn thể hội viên LHQ.
Hành động nầy đi ngược lại quyền lợi chung trên thế giới do luật
quốc tế về biển quy định. Chẳng những Nhật Bản ở Đông bắc Á, các nước
ĐNÁ mà cả HK cũng không chấp nhận đường chữ U do TC vẽ ra. Ngày
4-12-2014, Hạ viện HK thông qua với đa số tuyệt đối 100% nghị quyết
H.RES.744, nhấn mạnh cần phải tìm giải pháp hòa bình trên nền tảng luật
pháp quốc tế trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, hải đảo trên Biển Đông.
Hôm sau, ngày 5-12-2014, Bộ Ngoại giao HK đưa ra Bản nhận định dài 24
trang về yêu sách đường chữ U của TC. Câu kết luận cuối cùng của bản
nhận định như sau: “…đòi hỏi về đường gạch nối [đường lưỡi bò, chữ U, 9 khúc] không phù hợp với luật quốc tế về biển.” (Nguyên văn: “…its dashed-line claim does not accord with the international law of the sea.”) Ngày 23-12-2014, khi trả lời thỉnh nguyện thư ngày 13-5-2014 của 139.554 chữ ký, Tòa bạch ốc khẳng định: “Hoa
Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, trong đó bao gồm tự do hàng hải,
giải quyết các tranh chấp một cách ôn hòa, tôn trọng luật pháp quốc tế
và thương mại hợp pháp diễn ra thuận lợi… Chúng tôi đã bày tỏ quan ngại
trước các hành động của Trung Quốc, trong đó bao gồm việc triển khai
giàn khoan Hải Dương 981, đến các cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc”. (8)
Hiện nay, tuy trỗi dậy và hung hăng, TC không đồng minh với ai cả,
tự cô lập. Nếu có một biến cố xảy ta ở nội địa TC, hoặc nếu có một cuộc
tranh chấp kinh tế, hay một biến cố ngoại giao bất ngờ bùng nổ, các nước
liên minh áp lực TC bằng những biện pháp kinh tế như hiện áp lực Nga,
thì TC có thể sẽ khốn đốn và có thể sẽ đổ vỡ thành nhiều mảnh như Liên
Xô trước đây. Khi đó, Việt Nam mới có thể lợi dụng thời cơ, chiếm lại
Hoàng Sa và Trường Sa.
Kết luận
Do hoàn cảnh chính trị thế giới, VNCH tạm thời thất bại năm 1975,
nhưng chính nghĩa dân tộc, lý tưởng tự do dân chủ của VNCH là chân lý
vĩnh hằng, và là ước mơ của toàn dân Việt Nam.
Chế độ CSVN càng khiếp nhược trước TC, dân chúng Việt Nam càng
thương tiếc những chiến sĩ Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa là niềm tự
hào dân tộc và là biểu tượng hội tụ lòng yêu nước, dẫn đường cho toàn
dân Việt Nam đoàn kết tranh đấu giải thể chế độ CS, mới có thể đòi lại
đất đai, quần đảo đã mất vào tay TC. Trận chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974
giữ một vị trí lịch sử vô cùng quan trọng trong công cuộc vận động phục
hưng đất nước. Xin thành kính tri ân sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và các
chiến sĩ Hoàng Sa.
_____________________________________
Chú thích:
(1) Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.
(2) Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.
(3) Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.
(4) Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tr. 135.
(5) Đăng trên các website 13-03-2009.
(6) Đặng Chí Hùng, “Tôi gọi họ là những anh hùng”, Dân Làm Báo 30-3-2013.
(7) http://phanduykha.wordpress.com, Phan Duy Kha, “Sẽ có một ngày lấy lại Hoàng Sa”, 14-1-2014.
(8) BBC Tiếng Việt, 24-12-2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét