TS Luật Cù Huy Hà Vũ – VOA
Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4 được chính quyền cộng sản hiện hành ở
Việt Nam mệnh danh “Ngày Giải phóng miền Nam”, cộng đồng người Việt ở
hải ngoại, đặc biệt ở Hoa Kỳ mà tuyệt đại đa số sống dưới chế độ cũ –
chính thể Việt Nam Cộng Hòa, lại dấy lên quan điểm “cộng sản Việt Nam
xâm lăng miền Nam” và vì thế coi đó là “Ngày Quốc hận”. Quan điểm này có
nghĩa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo chủ nghĩa cộng sản và Việt Nam
Cộng hòa theo chủ nghĩa chống cộng là hai “quốc gia”, là hai “nước”
riêng biệt. Thực vậy, “xâm lược” là việc quốc gia này dùng vũ lực thôn
tính lãnh thổ của quốc gia khác. Cũng như vậy, “Quốc hận” thể hiện tình
cảm của người dân “mất nước” khi “nước” mình bị quốc gia khác đô hộ hoặc
sáp nhập bằng vũ lực vào quốc gia đó. Tuy nhiên quan điểm này không
đứng vững khi đối chiếu với chính lịch sử của Việt Nam Cộng hòa.
Trước hết cần nhắc lại rằng Việt Nam Cộng hòa thoát thai từ Quốc gia Việt Nam – một chính thể thuộc Liên bang Đông Dương trong Liên hiệp Pháp – tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, do cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Tại Hội nghị Genève 1954, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam Trần Văn Đỗ đã không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam với lý do hiệp định này gây chia cắt Việt Nam. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng nêu rõ: “Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập và Tự do cho xứ sở.”
Một ngày sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam được ký kết giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 21/7/1954, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ trên toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống để phản đối sự chia đôi đất nước. Tuy nhiên sau đó Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi (Quốc gia Việt Nam) không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ”.
Như vậy với tư cách kế tục Quốc gia Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố chủ quyền đối với cả miền Bắc Việt Nam chứ không chỉ đối với miền Nam Việt Nam đồng nghĩa thống nhất đất nước là mục tiêu của chính thể này. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, cả Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị, cũng đã thể hiện rõ ràng quyết tâm chính trị trên.
Lời mở đầu Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 khẳng định “chánh thể Cộng hòa nhằm mục đích thống nhất lãnh thổ”. Tiếp đó Điều 1 Hiến pháp này quy định: “Việt Nam là một nước Cộng hòa, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân”. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 đã tái khẳng định “mục đích thống nhất lãnh thổ” vẫn trên cơ sở nguyên tắc “Việt Nam là một nước Cộng hòa, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân”. Cũng cần nói thêm rằng không có câu nào của cả hai Hiến pháp trên quy định “quốc gia” chỉ gồm miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra, sự tách bạch giữa “Quốc gia” và “Việt Nam Cộng hòa” vẫn tại Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa cho thấy “Việt Nam Cộng hòa” là một chính thể hay chế độ chính trị chứ không phải là quốc gia. Thực vậy, Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 ghi: “Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân…” và “Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức”. Sự tách bạch này được thể hiện không gì rõ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp này: “Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Hòa”.
Trên thực tế, các chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã có những kế hoạch thống nhất đất nước. Tổng thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ chuẩn bị kế hoạch “Bắc tiến” nhằm chiếm lại miền Bắc Việt Nam. Tem thư được in khẩu hiệu “Toàn dân đoàn kết, chuẩn bị Bắc tiến” với đích cắm cờ vàng ba sọc đỏ là Hà Nội, là Chùa Một Cột, biểu trưng của Hà Nội.
Mặc dù chính trị hỗn loạn sau vụ đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963, một số lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà vẫn tuyên bố tiến công miền Bắc để thống nhất Việt Nam. Ngày 14/7/1964, Thủ tướng Nguyễn Khánh đã công khai tuyên bố “Bắc tiến”. Hai ngày sau, tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng dội bom miền Bắc. Trung tuần tháng 7/1965, vẫn tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc này là Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương, tức Thủ tướng, đã tổ chức hội thảo “Ngày toàn dân đoàn kết chuẩn bị giải phóng miền Bắc”. Thời kỳ này người ta có thể thấy tại miền Nam các bảng cổ động “Toàn dân đoàn kết để bảo vệ miền Nam, giải phóng miền Bắc”.
Như vậy, không chỉ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và các lực lượng cộng sản ở miền Nam dưới vỏ bọc “Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” quyết “giải phóng” miền Nam mà cả Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam cũng quyết “giải phóng” miền Bắc để thống nhất đất nước!
Tóm lại, theo quan điểm chính thống của Việt Nam Cộng hòa thì ở Việt Nam chỉ có một quốc gia, miền Nam và miền Bắc chỉ là hai phần lãnh thổ của quốc gia Viêt Nam, cuộc chiến giữa hai miền là cuộc chiến ý thức hệ, giữa miền Nam chống cộng và miền Bắc cộng sản. Nói cách khác, chiến tranh Nam – Bắc Việt Nam giai đoạn từ 1955 đến 30/4/1975 là một cuộc nội chiến và vì vậy không phải là chiến tranh giữa hai quốc gia, giữa hai “nước”, tương tự như những gì đã diễn ra giữa miền Nam và miền Bắc bán đảo Triều Tiên từ 1950 đến 1953. Do đó không thể dùng từ “xâm lăng” cho việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc đưa quân vào miền Nam để cùng các lực lượng cộng sản tại chỗ chống lại Việt Nam Cộng hòa. Cũng như vậy, không thể gọi ngày 30 tháng 4 là “Ngày Quốc hận” vì đã không có chuyện “mất nước” vào ngày đó. Thực vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn có tên trên bản đồ thế giới, là thành viên Liên Hiệp Quốc, có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ, cho dù lãnh thổ đã bị Trung Quốc chiếm nhiều nơi, nhất là ở biển Đông.
Mặc dầu vậy, không thể phủ nhận oán hận của những người Việt từng phục vụ chính thể Việt Nam Cộng hòa và gia đình họ đối với chính quyền cộng sản Việt Nam là vô cùng lớn. Vậy đâu là nguyên nhân?
Chắc chắn việc bị các lực lượng cộng sản mà nòng cốt đến từ miền Bắc đánh bại khó có thể là nguyên nhân bởi thắng, thua trong chiến tranh là chuyện bình thường đồng nghĩa oán hận này chỉ có thể đến từ hành vi trả thù khủng khiếp của chính quyền cộng sản thời hậu chiến.
Có một thực tế là trong chiến tranh người bên đối phương dù đầu hàng vẫn có thể bị giam giữ và nếu trường hợp này xảy ra thì được gọi là tù binh hay tù nhân chiến tranh. Thế nhưng một khi chiến tranh chấm dứt thì vấn đề tù binh cũng chấm dứt, không ai có thể bị giam, bị cách ly khỏi gia đình và xã hội chỉ vì đã ở bên kia chiến tuyến, trừ những kẻ bị truy tố để rồi bị xét xử do phạm tội diệt chủng – tội ác chống loài người. Do đó việc nhà cầm quyền cộng sản sau 30/4/1975 đã giam không án trong gần trăm cái gọi là “trại cải tạo” từ vài năm đến hàng chục năm trời hàng trăm nghìn cựu quân nhân và viên chức của chính thể Việt Nam Cộng hòa mà nhà cầm quyền gọi một cách sỉ nhục là “ngụy quân”, “ngụy quyền” và hơn thế nữa, buộc họ lao động khổ sai dứt khoát là đòn thù. Tài liệu có bí số “TN/QP-14” của Bộ Quốc Phòng Việt Nam được phổ biến ngày 14/02/1977 không úp mở gọi những người này là “tù nhân”: “Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đình, Bộ Quốc phòng giao lại cho Bộ Nội vụ quản lý là 1.236.569 người”!
Ông Bùi Xuân Diệm, đại tá Việt Nam Cộng hòa từng là tù nhân tại “trại cải tạo” Suối Máu, Biên Hòa kể lại với tôi: “Quản giáo nói với tù nhân chúng tôi rằng: ‘Sau này nếu các anh được thả về, các anh chỉ được đi dưới mương chứ không được đi trên đường!’ Nghĩa là dù có được ra khỏi nhà tù có lính gác, “ngụy quân”, “ngụy quyền” sẽ lại bị giam trong sự khinh miệt và kỳ thị đến tột cùng của nhà cầm quyền cộng sản và lần này là chung thân, là vĩnh viễn.
Mà đâu đã hết, ngay cả gia đình những tù nhân này cũng không thoát khỏi đòn thù của nhà cầm quyền cộng sản. Thực vậy, quyết định ngày 19/5/1976 của Chính phủ buộc “dân cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân” đi “vùng kinh tế mới” lập tại các vùng rừng núi hẻo lánh không gì khác hơn là nhằm đầy ải họ và nhất là nhằm tước đoạt nhà cửa của họ. Bên cạnh đó, thành viên những gia đình này và những gia đình “ngụy quân”, “ngụy quyền” khác phải chịu một sự phân biệt đối xử gay gắt, hầu hết trong số họ bị cấm đoán vào đại học và cơ quan Nhà nước, ngay cả du lịch hay học tập ở nước ngoài họ cũng không được phép, nghĩa là cụt đường tiến thân trong xã hội. Tóm lại, các cựu quân nhân và viên chức Việt Nam Cộng hòa và gia đình họ bị chính quyền cộng sản tước đoạt những quyền cơ bản của con người, của công dân và vì vậy họ chỉ còn là “phó thường dân” theo đúng nghĩa đen của từ này.
Không dừng lại đó, chính quyền cộng sản còn đang tay đẩy rất nhiều người đã sống dưới chế độ cũ vào chỗ chết khi đứng ra tổ chức hoặc bật đèn xanh cho các cuộc vượt biên chủ yếu bằng đường biển như bán bãi, bán thuyền nhằm thu vàng và chiếm đoạt nhà cửa của họ, đúng cái kiểu “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” mà dân gian thường nói. Thực vậy, những cuộc vượt biên đầy rủi ro này đã dẫn đến cái chết thê thảm của hàng trăm nghìn người hoặc do bị lật thuyền hoặc do bị cướp biển giết, đó là chưa kể hàng nghìn, hàng nghìn đàn bà, con gái bị cướp biển hãm hiếp ngay trước mặt người thân của họ trong tột cùng đau đớn.
Một chính quyền táng tận lương tâm như thế, hỏi sao mà không oán hận chất chồng để trở thành thù hận!
Tuy nhiên trong bất cứ hoàn cảnh nào tồn tại một hận thù như vậy là có hại không kể xiết cho quốc gia Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc lăm le chiếm nốt quần đảo Trường Sa sau khi đã chiếm một phần quần đảo này vào năm 1988 và nuốt trọn quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974. Nói cách khác, hóa giải hận thù dân tộc là nghĩa vụ đối với Tổ quốc mà chính quyền cộng sản Việt Nam buộc phải thực hiện và hơn thế nữa, cấp bách.
Chính vì lợi ích tối cao đó của quốc gia Việt Nam mà ngày 30/8/2010 công dân Cù Huy Hà Vũ, một người không hề dính dáng tới Việt Nam Cộng hòa, đã gửi Quốc Hội Việt Nam “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm Quốc hiệu để hòa giải dân tộc”. Thế nhưng thay vì làm theo lời nói phải này, chính quyền cộng sản lại lấy đó làm chứng cứ về “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để bỏ tù công dân Cù Huy Hà Vũ. Cáo trạng ngày 17/12/ 2010 của Viện kiểm sát Hà Nội hậm hực: “Vũ bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Phê phán Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây chia rẽ, thù hằn dân tộc bằng lời lẽ: “ …Tiếc thay cho ban lãnh đạo nhà nước Việt nam thống nhất đã không làm được như thế mà ngược lại – phải nói thật – còn xát muối vào vết thương chiến tranh chưa kịp lên da bằng việc tập trung cải tạo trong hàng năm trời cả trăm nghìn quân nhân viên chức VNCH, ….đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ vào vòng xoáy thù hận, dẫn đến một số quay ra chống chính quyền mới để rồi bị kết tội xâm phạm an ninh quốc gia”! (*)
Vậy là rõ: Chính quyền cộng sản Việt Nam cam tâm bán nước cho Trung Quốc nên mới cự tuyệt đến cùng hòa giải dân tộc. Do đó với những ai giòng giống Lạc Hồng, mau chóng giải thể chính quyền độc tài này không chỉ là cách duy nhất để cứu nước mà còn là cách duy nhất để xóa bỏ hận thù dân tộc vì một Việt Nam hiển vinh trên trường quốc tế.
Tin rằng một ngày rất gần chế độ toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị xóa sổ, mong là một cách hòa bình. Và cái ngày bao mong chờ đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ đi vào lịch sử Việt Nam như “Ngày Tự do” (Freedom Day) đồng nhất với dấu chấm hết cho bức tường “30 tháng 4 – Giải phóng miền Nam” cứa lòng dân tộc.
(*) Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hoà – Lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc, Bauxite Việt Nam 31/8/2010, http://www.boxitvn.net/bai/10233
Tác giả là một nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị Việt Nam, đã hai lần khởi kiện Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng về các quyết định trái Hiến pháp và pháp luật, hiện là học giả tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ.
Trích dẫn:
“Việc nhà cầm quyền cộng sản sau 30/4/1975 đã giam không án trong gần trăm cái gọi là “trại cải tạo” hàng trăm nghìn cựu quân nhân và viên chức của chính thể Việt Nam Cộng hòa mà nhà cầm quyền gọi một cách sỉ nhục là “ngụy quân”, “ngụy quyền” và hơn thế nữa, buộc họ lao động khổ sai dứt khoát là đòn thù”
“Với những ai giòng giống Lạc Hồng, mau chóng giải thể chính quyền độc tài này không chỉ là cách duy nhất để cứu nước mà còn là cách duy nhất để xóa bỏ hận thù dân tộc vì một Việt Nam hiển vinh trên trường quốc tế”.
“Tin rằng một ngày rất gần chế độ toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị xóa sổ, mong là một cách hòa bình. Và cái ngày bao mong chờ đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ đi vào lịch sử Việt Nam như “Ngày Tự do” (Freedom Day) đồng nhất với dấu chấm hết cho bức tường “30 tháng 4 – Giải phóng miền Nam” cứa lòng dân tộc”.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Trước hết cần nhắc lại rằng Việt Nam Cộng hòa thoát thai từ Quốc gia Việt Nam – một chính thể thuộc Liên bang Đông Dương trong Liên hiệp Pháp – tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, do cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Tại Hội nghị Genève 1954, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam Trần Văn Đỗ đã không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam với lý do hiệp định này gây chia cắt Việt Nam. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng nêu rõ: “Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập và Tự do cho xứ sở.”
Một ngày sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam được ký kết giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 21/7/1954, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ trên toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống để phản đối sự chia đôi đất nước. Tuy nhiên sau đó Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi (Quốc gia Việt Nam) không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ”.
Như vậy với tư cách kế tục Quốc gia Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố chủ quyền đối với cả miền Bắc Việt Nam chứ không chỉ đối với miền Nam Việt Nam đồng nghĩa thống nhất đất nước là mục tiêu của chính thể này. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, cả Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị, cũng đã thể hiện rõ ràng quyết tâm chính trị trên.
Lời mở đầu Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 khẳng định “chánh thể Cộng hòa nhằm mục đích thống nhất lãnh thổ”. Tiếp đó Điều 1 Hiến pháp này quy định: “Việt Nam là một nước Cộng hòa, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân”. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 đã tái khẳng định “mục đích thống nhất lãnh thổ” vẫn trên cơ sở nguyên tắc “Việt Nam là một nước Cộng hòa, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân”. Cũng cần nói thêm rằng không có câu nào của cả hai Hiến pháp trên quy định “quốc gia” chỉ gồm miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra, sự tách bạch giữa “Quốc gia” và “Việt Nam Cộng hòa” vẫn tại Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa cho thấy “Việt Nam Cộng hòa” là một chính thể hay chế độ chính trị chứ không phải là quốc gia. Thực vậy, Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 ghi: “Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân…” và “Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức”. Sự tách bạch này được thể hiện không gì rõ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp này: “Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Hòa”.
Trên thực tế, các chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã có những kế hoạch thống nhất đất nước. Tổng thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ chuẩn bị kế hoạch “Bắc tiến” nhằm chiếm lại miền Bắc Việt Nam. Tem thư được in khẩu hiệu “Toàn dân đoàn kết, chuẩn bị Bắc tiến” với đích cắm cờ vàng ba sọc đỏ là Hà Nội, là Chùa Một Cột, biểu trưng của Hà Nội.
Mặc dù chính trị hỗn loạn sau vụ đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963, một số lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà vẫn tuyên bố tiến công miền Bắc để thống nhất Việt Nam. Ngày 14/7/1964, Thủ tướng Nguyễn Khánh đã công khai tuyên bố “Bắc tiến”. Hai ngày sau, tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng dội bom miền Bắc. Trung tuần tháng 7/1965, vẫn tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc này là Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương, tức Thủ tướng, đã tổ chức hội thảo “Ngày toàn dân đoàn kết chuẩn bị giải phóng miền Bắc”. Thời kỳ này người ta có thể thấy tại miền Nam các bảng cổ động “Toàn dân đoàn kết để bảo vệ miền Nam, giải phóng miền Bắc”.
Như vậy, không chỉ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và các lực lượng cộng sản ở miền Nam dưới vỏ bọc “Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” quyết “giải phóng” miền Nam mà cả Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam cũng quyết “giải phóng” miền Bắc để thống nhất đất nước!
Tóm lại, theo quan điểm chính thống của Việt Nam Cộng hòa thì ở Việt Nam chỉ có một quốc gia, miền Nam và miền Bắc chỉ là hai phần lãnh thổ của quốc gia Viêt Nam, cuộc chiến giữa hai miền là cuộc chiến ý thức hệ, giữa miền Nam chống cộng và miền Bắc cộng sản. Nói cách khác, chiến tranh Nam – Bắc Việt Nam giai đoạn từ 1955 đến 30/4/1975 là một cuộc nội chiến và vì vậy không phải là chiến tranh giữa hai quốc gia, giữa hai “nước”, tương tự như những gì đã diễn ra giữa miền Nam và miền Bắc bán đảo Triều Tiên từ 1950 đến 1953. Do đó không thể dùng từ “xâm lăng” cho việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc đưa quân vào miền Nam để cùng các lực lượng cộng sản tại chỗ chống lại Việt Nam Cộng hòa. Cũng như vậy, không thể gọi ngày 30 tháng 4 là “Ngày Quốc hận” vì đã không có chuyện “mất nước” vào ngày đó. Thực vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn có tên trên bản đồ thế giới, là thành viên Liên Hiệp Quốc, có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ, cho dù lãnh thổ đã bị Trung Quốc chiếm nhiều nơi, nhất là ở biển Đông.
Mặc dầu vậy, không thể phủ nhận oán hận của những người Việt từng phục vụ chính thể Việt Nam Cộng hòa và gia đình họ đối với chính quyền cộng sản Việt Nam là vô cùng lớn. Vậy đâu là nguyên nhân?
Chắc chắn việc bị các lực lượng cộng sản mà nòng cốt đến từ miền Bắc đánh bại khó có thể là nguyên nhân bởi thắng, thua trong chiến tranh là chuyện bình thường đồng nghĩa oán hận này chỉ có thể đến từ hành vi trả thù khủng khiếp của chính quyền cộng sản thời hậu chiến.
Có một thực tế là trong chiến tranh người bên đối phương dù đầu hàng vẫn có thể bị giam giữ và nếu trường hợp này xảy ra thì được gọi là tù binh hay tù nhân chiến tranh. Thế nhưng một khi chiến tranh chấm dứt thì vấn đề tù binh cũng chấm dứt, không ai có thể bị giam, bị cách ly khỏi gia đình và xã hội chỉ vì đã ở bên kia chiến tuyến, trừ những kẻ bị truy tố để rồi bị xét xử do phạm tội diệt chủng – tội ác chống loài người. Do đó việc nhà cầm quyền cộng sản sau 30/4/1975 đã giam không án trong gần trăm cái gọi là “trại cải tạo” từ vài năm đến hàng chục năm trời hàng trăm nghìn cựu quân nhân và viên chức của chính thể Việt Nam Cộng hòa mà nhà cầm quyền gọi một cách sỉ nhục là “ngụy quân”, “ngụy quyền” và hơn thế nữa, buộc họ lao động khổ sai dứt khoát là đòn thù. Tài liệu có bí số “TN/QP-14” của Bộ Quốc Phòng Việt Nam được phổ biến ngày 14/02/1977 không úp mở gọi những người này là “tù nhân”: “Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đình, Bộ Quốc phòng giao lại cho Bộ Nội vụ quản lý là 1.236.569 người”!
Ông Bùi Xuân Diệm, đại tá Việt Nam Cộng hòa từng là tù nhân tại “trại cải tạo” Suối Máu, Biên Hòa kể lại với tôi: “Quản giáo nói với tù nhân chúng tôi rằng: ‘Sau này nếu các anh được thả về, các anh chỉ được đi dưới mương chứ không được đi trên đường!’ Nghĩa là dù có được ra khỏi nhà tù có lính gác, “ngụy quân”, “ngụy quyền” sẽ lại bị giam trong sự khinh miệt và kỳ thị đến tột cùng của nhà cầm quyền cộng sản và lần này là chung thân, là vĩnh viễn.
Mà đâu đã hết, ngay cả gia đình những tù nhân này cũng không thoát khỏi đòn thù của nhà cầm quyền cộng sản. Thực vậy, quyết định ngày 19/5/1976 của Chính phủ buộc “dân cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân” đi “vùng kinh tế mới” lập tại các vùng rừng núi hẻo lánh không gì khác hơn là nhằm đầy ải họ và nhất là nhằm tước đoạt nhà cửa của họ. Bên cạnh đó, thành viên những gia đình này và những gia đình “ngụy quân”, “ngụy quyền” khác phải chịu một sự phân biệt đối xử gay gắt, hầu hết trong số họ bị cấm đoán vào đại học và cơ quan Nhà nước, ngay cả du lịch hay học tập ở nước ngoài họ cũng không được phép, nghĩa là cụt đường tiến thân trong xã hội. Tóm lại, các cựu quân nhân và viên chức Việt Nam Cộng hòa và gia đình họ bị chính quyền cộng sản tước đoạt những quyền cơ bản của con người, của công dân và vì vậy họ chỉ còn là “phó thường dân” theo đúng nghĩa đen của từ này.
Không dừng lại đó, chính quyền cộng sản còn đang tay đẩy rất nhiều người đã sống dưới chế độ cũ vào chỗ chết khi đứng ra tổ chức hoặc bật đèn xanh cho các cuộc vượt biên chủ yếu bằng đường biển như bán bãi, bán thuyền nhằm thu vàng và chiếm đoạt nhà cửa của họ, đúng cái kiểu “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” mà dân gian thường nói. Thực vậy, những cuộc vượt biên đầy rủi ro này đã dẫn đến cái chết thê thảm của hàng trăm nghìn người hoặc do bị lật thuyền hoặc do bị cướp biển giết, đó là chưa kể hàng nghìn, hàng nghìn đàn bà, con gái bị cướp biển hãm hiếp ngay trước mặt người thân của họ trong tột cùng đau đớn.
Một chính quyền táng tận lương tâm như thế, hỏi sao mà không oán hận chất chồng để trở thành thù hận!
Tuy nhiên trong bất cứ hoàn cảnh nào tồn tại một hận thù như vậy là có hại không kể xiết cho quốc gia Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc lăm le chiếm nốt quần đảo Trường Sa sau khi đã chiếm một phần quần đảo này vào năm 1988 và nuốt trọn quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974. Nói cách khác, hóa giải hận thù dân tộc là nghĩa vụ đối với Tổ quốc mà chính quyền cộng sản Việt Nam buộc phải thực hiện và hơn thế nữa, cấp bách.
Chính vì lợi ích tối cao đó của quốc gia Việt Nam mà ngày 30/8/2010 công dân Cù Huy Hà Vũ, một người không hề dính dáng tới Việt Nam Cộng hòa, đã gửi Quốc Hội Việt Nam “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm Quốc hiệu để hòa giải dân tộc”. Thế nhưng thay vì làm theo lời nói phải này, chính quyền cộng sản lại lấy đó làm chứng cứ về “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để bỏ tù công dân Cù Huy Hà Vũ. Cáo trạng ngày 17/12/ 2010 của Viện kiểm sát Hà Nội hậm hực: “Vũ bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Phê phán Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây chia rẽ, thù hằn dân tộc bằng lời lẽ: “ …Tiếc thay cho ban lãnh đạo nhà nước Việt nam thống nhất đã không làm được như thế mà ngược lại – phải nói thật – còn xát muối vào vết thương chiến tranh chưa kịp lên da bằng việc tập trung cải tạo trong hàng năm trời cả trăm nghìn quân nhân viên chức VNCH, ….đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ vào vòng xoáy thù hận, dẫn đến một số quay ra chống chính quyền mới để rồi bị kết tội xâm phạm an ninh quốc gia”! (*)
Vậy là rõ: Chính quyền cộng sản Việt Nam cam tâm bán nước cho Trung Quốc nên mới cự tuyệt đến cùng hòa giải dân tộc. Do đó với những ai giòng giống Lạc Hồng, mau chóng giải thể chính quyền độc tài này không chỉ là cách duy nhất để cứu nước mà còn là cách duy nhất để xóa bỏ hận thù dân tộc vì một Việt Nam hiển vinh trên trường quốc tế.
Tin rằng một ngày rất gần chế độ toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị xóa sổ, mong là một cách hòa bình. Và cái ngày bao mong chờ đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ đi vào lịch sử Việt Nam như “Ngày Tự do” (Freedom Day) đồng nhất với dấu chấm hết cho bức tường “30 tháng 4 – Giải phóng miền Nam” cứa lòng dân tộc.
(*) Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hoà – Lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc, Bauxite Việt Nam 31/8/2010, http://www.boxitvn.net/bai/10233
Tác giả là một nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị Việt Nam, đã hai lần khởi kiện Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng về các quyết định trái Hiến pháp và pháp luật, hiện là học giả tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ.
Trích dẫn:
“Việc nhà cầm quyền cộng sản sau 30/4/1975 đã giam không án trong gần trăm cái gọi là “trại cải tạo” hàng trăm nghìn cựu quân nhân và viên chức của chính thể Việt Nam Cộng hòa mà nhà cầm quyền gọi một cách sỉ nhục là “ngụy quân”, “ngụy quyền” và hơn thế nữa, buộc họ lao động khổ sai dứt khoát là đòn thù”
“Với những ai giòng giống Lạc Hồng, mau chóng giải thể chính quyền độc tài này không chỉ là cách duy nhất để cứu nước mà còn là cách duy nhất để xóa bỏ hận thù dân tộc vì một Việt Nam hiển vinh trên trường quốc tế”.
“Tin rằng một ngày rất gần chế độ toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị xóa sổ, mong là một cách hòa bình. Và cái ngày bao mong chờ đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ đi vào lịch sử Việt Nam như “Ngày Tự do” (Freedom Day) đồng nhất với dấu chấm hết cho bức tường “30 tháng 4 – Giải phóng miền Nam” cứa lòng dân tộc”.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét