Phạm Khánh Chương
24-4-2016
41 năm tha hương là 41 năm người Việt tỵ nạn Cộng sản nỗ lực không
ngừng, không chỉ ở Úc Châu mà khắp nơi trên thế giới. 41 năm đủ dài để
cùng nhìn lại mình và nhìn lại quê hương.
“Bơ vơ, ngơ ngác, sợ hãi” là những từ ngữ để mô tả người Việt tỵ nạn
thế hệ thứ nhất, thế hệ cha anh, khi lần đầu đặt chân đến Úc. Nhưng họ
đã vượt qua tất cả, cũng như họ đã vượt qua những cơn sóng dữ dội phũ
kín con tàu, những tiếng gào thét mạn rợ của bọn hải tặc, những xác
người thân trôi xa dần trên biển, nhưng trên hết, họ vượt qua được số
phận bi thãm mà nhà cầm quyền CSVN đã và vẫn đang áp đặt cho đồng bào họ
tại Quê Nhà.
Đến Úc với hai bàn tay trắng, bơ vơ, lạc lõng, họ làm việc cật lực ngày
đêm. Làm việc không cần quan tâm đến sức lực, không cần biết đến ngày
mai. Họ làm việc chỉ để được tồn tại. Thế hệ thứ hai có những đứa bé mà
tuổi thơ chỉ chơi quanh quẩn trong bốn bức tường, đồ chơi là những mãnh
vải vụn, hay bị cột chân, để chỉ có thể bò loanh quanh nơi bàn máy may
mà cha mẹ đang gò lưng, may ngày, may đêm cho kịp giao hàng.
Mọi thứ bắt đầu từ số không. Họ làm việc để mong tồn tại. Họ ăn bữa
đói, bữa no, chắt chiu từng đồng để lo toan cho cuộc đời mới. Nhưng họ
còn cha, mẹ, anh, chồng, đồng đội đang ở trong những trại tù cải tạo
Cộng sản, họ còn những người thân đang đói khổ nơi quê nhà. Nên dù thế
nào, những “món quà cho quê hương” vẫn ra đời.
Những “món quà cho quê hương” cứu đói, chắt chiu gởi về. Những món
quà gói ghém nặng trĩu tâm tình nhưng giấu chặt sự cô đơn và những giọt
nước mắt tha hương bơ vơ của họ. Chưa bao giờ câu “Ly Hương” thấm thía
như vậy.
Bất đồng ngôn ngữ, văn hóa khác biệt, trong giai đoạn đầu, mọi giao
tiếp trong xã hội đều rất khó khăn, khổ sở. Ốm đau, bệnh tật hầu như
không có bác sĩ hay nhân viên chuyên môn người Việt, tất cả phải nhờ qua
phiên dịch. Thế hệ thứ hai dần dần lớn lên, 8, 9 tuổi đã có thể làm
phiên dịch cho cha mẹ.
“Nơi nào yêu thương ta, nơi đó là Tổ Quốc ta”. Người Việt tỵ nạn tại
Úc Châu cũng như nhiều nơi khác đã nhận sự cưu mang và cũng đóng góp rất
nhiều cho Tổ Quốc thứ hai của mình.
Hơn chục năm sau, kể từ ngày đặt chân đến Úc, đã có rải rác những họ,
tên tiếng Việt nằm trong bảng xếp hạng cao tại các kỳ thi Quốc Gia. Đã
có những người Việt được Chính Phủ Úc trao tặng danh hiệu cao quý
“Australian of the Year”.
Chỉ sau 30 năm định cư tại Úc, ngày 25 tháng 5 năm 2005, Cộng Đồng
người Việt tỵ nạn Cộng sản tại Úc Châu đã được Quốc Hội Liên Bang Úc tổ
chức vinh danh “30 Năm Đoàn Kết Tranh Đấu Cho Tự Do, Dân Chủ tại Việt
Nam và Hội Nhập Thành Công Xã Hội Úc”. Đây là niềm tự hào mà không phải
cộng đồng di dân hay tỵ nạn nào cũng có được.
Ngày 16 tháng 4 năm 2016, Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại NSW Úc Châu
đã khánh thành Trống Đồng Ngọc Lũ tại Saigon Place, với sự tham gia và
hỗ trợ của Hội Đồng Thành Phố Bankstown.
Nhắc tới người Việt tỵ nạn Cộng sản mà không nhắc tới cờ Vàng là một
thiếu sót lớn. Cờ Vàng ba sọc đỏ ngày nay đã được nhiều quốc gia Dân chủ
trên thế giới công nhận là “Lá cờ Tự do và Di sản” (Heritage and Freedom Flag) của người Việt tỵ nạn Cộng sản.
Một dân tộc sẽ bị hủy diệt nếu lịch sử và văn hóa của họ bị mất đi.
Đối với người Việt tỵ nạn Cộng sản, cờ Vàng quan trọng không chỉ vì mang
ý nghĩa Tự do, đối kháng với chế độ chính trị độc tài của Cộng sản hiện
nay, mà còn là biểu tượng của Di sản, kế thừa lịch sử dân tộc từ thời
Hai Bà Trưng dùng “voi phất ngọn cờ Vàng” đánh đuổi tên giặc Hán Tô Định
để giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc trong truyện ngắn “Rừng Mắm” đã ví những
người tiên phong như cây mắm, cây đước, cây tràm hy sinh thân mình để
biến nơi phù sa phèn chua, nước mặn thành nơi đất lành, cây mọc. Thế hệ
thứ nhất người Việt tỵ Nạn Cộng sản cũng vậy, họ vượt qua những phèn
chua, nước mặn là bức tường ngôn ngữ, là ngăn cách văn hóa, là dị biệt
chủng tộc. Họ vượt qua tất cả mọi khó khăn để bám rễ vững chắc vào vùng
đất mới cho thế hệ kế tiếp được bình an mọc lên thành cây xoài, cây ổi,
giúp ích cho đời.
Thế hệ thứ nhất bị tước mất gốc rễ, họ ra đi chỉ mang theo truyền
thống văn hóa quê hương. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, truyền thống
hiếu học, truyền thống cần cù, hy sinh, “uống nước nhớ nguồn”… , đã giúp
họ vượt qua mọi khó khăn và thành đạt nơi quê người.
Văn hóa Việt Nam dần dần được công nhận, được vinh danh, bám rễ và
hòa nhập với nền văn hóa bản xứ và các nền văn hóa khác để tạo ra những
bức tranh văn hóa đa dạng sinh động đầy màu sắc cho xã hội Anh, Úc,
Pháp, Mỹ… quê hương mới của họ.
41 năm trôi qua, những đứa bé ngày nào chỉ bò quanh cái máy may, nay
đã sãi cánh như chim bay khắp phương trời. Người Việt tỵ nạn Cộng sản và
con cháu họ đã có mặt hầu hết các ngành nghề chuyên môn và thành công
trong nhiều lãnh vực, có người còn gìữ vai trò quan trọng trong chính
phủ nơi họ sinh sống.
Thế hệ thứ hai, thứ ba của người Việt tỵ nạn Cộng sản sinh ra và lớn
lên nơi xứ người mang những bản sắc văn hoá khác nhau. Họ có những cái
tên tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức…Dù họ có quên tiếng Việt, nói những
ngôn ngữ khác nhau và thành đạt như thế nào…, nhưng truyền thống văn
hóa, lịch sử được cha anh lưu lại sẽ có ngày thôi thúc họ tìm về nơi quê
cha, đất tổ.
Đất nước chiến tranh liên miên, người Việt Nam hết thế hệ này đến thế
hệ khác chỉ sống bằng ước mơ và hy vọng. Sự tàn khốc của chiến tranh
làm người Việt Nam như những mầm khô, kiệt quệ, nhưng khi gặp miền đất
lành, thì những mầm khô đó sẽ nẩy mầm, bung lên sức sống, mãnh liệt.
Cùng một chặng đường 41 năm, người Việt hải ngoại xuất phát từ con số
không và rất nhiều bất trắc trong xã hội mới, đã chấp cánh bay cao với
những ước mơ của họ. Trong khi đó, người Việt trong nước vẫn đang phải
sống với đầy rẫy bất công và những lời hứa hão huyền.
Lời hứa của Hồ Chí Minh cách đây 71 năm “Mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng…. có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” làm chết hàng triệu người, cho đến bây giờ, đảng Cộng sản vẫn
không thực hiện được.
Không những thế, người Việt trong nước hiện nay còn phải sống chung
với nhiều thứ “tặc”, “lũ” khác, và bây giờ còn thêm “hạn” và “mặn”. Đến
khi nào thì người Việt Nam được thông báo sẽ sống chung với giặc? Dối
trá và bất tài là tất cả những gì mà đảng Cộng sản có.
41 năm hơn nửa đời người, nhìn lại những gì đảng Cộng sản đã làm,
không ai còn tin đảng CSVN thực tâm muốn làm điều gì tốt đẹp cho đất
nước. Lịch sử và thực tế đã chứng minh chủ nghĩa Cộng sản mà đảng CSVN
tôn thờ, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng chỉ đồng nghĩa với dối trá và hủy
diệt.
Chính đảng Cộng sản chứ không ai khác, đã phá vỡ mọi truyền thống văn
hóa tốt đẹp, lắng đọng tình người của dân tộc, phá vỡ đền thờ, chùa,
miếu trầm mặc, bao dung, để dựng lên một ý thức hệ tâm linh Cộng sản
khát máu xa lạ, giả dối, tạo ra những chia cắt xã hội chưa biết bao giờ
mới hàn gắn được.
Đảng Cộng sản đập phá văn hóa cũ, sửa đổi lịch sử, để xây dựng một xã
hội mới với nền văn hóa, lịch sử dối trá, một nền văn hóa đầy rẫy những
lễ hội “tâm linh” mê tín, lễ hội “truyền thống” bát nháo và những thành
tích điên khùng.
Trong khi đó, thế hệ thứ nhất của người Việt tỵ nạn Cộng sản mất hết
mọi thứ, mất từ quê hương đến gia đình, mất từ tiếng ếnh nhái, ễnh ương,
đến mùi đất sau hè. Bơ vơ xứ người, văn hóa Việt Nam với truyền thống
đùm bọc từ ngàn xưa là “cuống dây rốn” kéo họ lại gần nhau, chia xẻ và
nâng đỡ nhau cùng đứng dậy. Họ nâng niu, gìn giữ sự tốt đẹp đó để rồi
truyền lại cho thế hệ sau, nơi xứ người. Một dân tộc sẽ bị hủy diệt nếu
lịch sử và văn hóa của họ bị hủy diệt.
Quê hương đẹp biết bao mà đảng CS chỉ muốn gieo trồng những hạt giống
đỏ độc hại, tưới bón bằng sự ảo tưởng, u mê và ngu dốt, khiến Tổ Quốc
ngàn năm ngạo nghễ vẫn là những bãi phù sa ngập mặn, chua phèn, không có
chỗch o cây thơm, trái ngọt, người Việt Nam vẫn chỉ là những mầm khô
chưa trổ.
Nhưng may mắn thay, giữa rừng cây độc hại gieo trồng từ hạt giống đỏ,
đã có những “cây mắm” lẽ loi mọc lên. Dù bị đốn ngã không thương tiếc,
nhưng thân xác những “cây mắm” đó đã tạo điều kiện cho “cây đước”, “cây
tràm” ra đời, vươn lên.
Câu ca dao Nam Bộ “Mắm trước, đước sau, tràm theo sát. Sau hàng dừa
nước, mái nhà ai” không chỉ đậm đà ý nghĩa hy sinh mà còn mang nặng
truyền thống dân tộc, truyền thống thừa kế, dựng nước và giữ nước.
Những “cây mắm” đó chính là những người tiên phong chống lại sự độc
tài, bất nhân, buôn dân, bán nước của đảng CSVN. Đó cũng chính là những
người trong nước như cụ Hoàng Minh Chính, cụ Trần Độ và nhiều, rất nhiều
người khác trong và ngoài nước đã đi trước, hy sinh, ngã xuống lót
đường cho những thế hệ đấu tranh hôm nay.
“Mắm trước, đước sau, tràm theo sát”.
Theo sau cây mắm là những cây đước, cây tràm tiếp tục lót đường cho
ngày mai ruộng lúa phì nhiêu, cho những vườn cây nặng trái và những miệt
vườn xanh mát được mọc lên.
Những cây đước, cây tràm hiện nay là những người trong và ngoài nước
đang dấn thân đấu tranh, những người đang bị đảng Cộng sản bắt ngồi tù
vì tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam. Họ đang gắng sức và hy sinh
rất nhiều để gieo những hạt mầm xanh tự do, dân chủ, nhân quyền cho thế
hệ mai sau và tương lai của người Việt Nam.
Họ sẽ thành công và xứng đáng được ngợi khen.
41 năm tính từ này 30 tháng 4 năm 1975, đảng Cộng sản đã đi quá xa
với truyền thống dân tộc, đã nhúng tay quá sâu vào tội ác để có thể quay
lại hay thay đổi.
Từ trước đến nay, chưa bao giờ có nhiều dấu hiệu sụp đổ của đảng CS
xuất hiện nhiều như bây giờ. Dấu hiệu đó hiện diện từ bên trong nội bộ
đảng Cộng sản cho đến bên ngoài.
Những kẻ dựa vào đảng Cộng sản làm giàu trên xương máu dân tộc đang
bắt đầu tháo chạy. Những kẻ tuyên thệ trung thành suốt đời với đảng đang
bắt đầu tháo chạy. Còn những kẻ đang cầm quyền hiện nay đang loay hoay
không biết phải giải quyết những hệ lụy phá sản của nền kinh tế, giáo
dục, văn hóa, xã hội do đảng Cộng sản gây ra như thế nào. Đảng CSVN đang
trong giai đoạn sụp đổ toàn diện, sụp đổ vô phương chống đỡ.
Dù đảng CS muốn hay không, sự sụp đổ đang tới. Đã đến lúc mọi người
chúng ta phải tách sự tồn vong, ăn bám của đảng Cộng sản ra khỏi dân
tộc, có như thế, dân tộc Việt Nam mới có thể trường tồn và vươn lên
được.
Không người Việt nào có lương tâm có thể ngồi nhìn hết thế hệ này đến
thế hệ khác vẫn chỉ là những cây đước, cây tràm…. Không người Việt nào
có thể nhẫn tâm ngồi nhìn đất nước cứ mãi vẫn chỉ là dãy đất phù sa phèn
chua, ngập mặn, rồi dần dần biến mất được.
Quê hương ta đẹp biết chừng nào. Người Việt Nam ta đâu thua kém dân
tộc nào trên thế giới. Ngày nay nhìn lại, đất nước thua kém mọi bề. Tất
cả, chỉ tại đảng Cộng sản!
30/4/1975 – 30/4/2016
https://anhbasam.wordpress.com/2016/04/24/7945-41-nam-nguoi-viet-ti-nan-mam-duoc-tram-va-phu-sa-nuoc-man/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét