LS Nguyễn Văn Thân
14-4-2016
Từ
khi lên nắm quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã tạo ra nhiều thay đổi
lớn trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Giáo huấn “ẩn mình, chờ
thời” của Đặng Tiểu Bình được áp dụng trong vài thập niên qua đã biến
mất trong ngôn từ ngoại giao. Thay vào đó là là một chiến lược chủ động,
quyết đoán và từ trên xuống dưới. Và chính cá nhân Tập Cận Bình nắm
quyền lèo lái cuộc “xoay trục” này trong quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ
và các nước láng giềng. Từ khi nhậm chức, Tập đã thực hiện hơn 40 chuyến
công du ngoại giao khắp nơi trên toàn thế giới.
Cũng trong khoản
thời gian ngắn ngủi này, Trung Quốc đã tiến hành những dự án quốc tế có
tầm cỡ như “Một vành đai, một con đường” và thành lập Ngân Hàng Đầu tư
Cơ Sở Hạ tầng Châu Á để đối trọng với Ngân hàng Phát Triển Châu Á do
Nhật lãnh đạo và Ngân hàng Thế Giới dưới tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ngoài
ra, Trung Quốc cũng đẩy mạnh tiếng nói trong một vài tổ chức không có
sự chi phối của Hoa Kỳ như BRICS (các quốc gia có nền kinh tế mới phát
triển gồm có Brazil, Nga, Ấn độ, Trung Quốc và Nam Phi), Tổ chức Hợp Tác
Thượng hải gồm có Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan
và Uzbekistan và Hội Nghị về các biện pháp xây dựng lòng tin ở châu Á
(CICA) để đối trọng với Hoa Kỳ về mặt an ninh và chiến lược.
Sự
thay đổi này của Tập Cận Bình chính là để thực hiện “Giấc Mơ Trung Hoa”
(the China Dream) đem lại sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa sau
cái gọi là ‘Thế kỷ Ô nhục’ khi sự yếu kém của Trung Quốc dưới thời nhà
Thanh bị các cường quốc phương Tây xâm lấn và Nhật Bản xâm lược. Giấc mơ
Trung Hoa thúc đẩy Trung Quốc tới năm 2049 (kỷ niệm 100 năm thành lập
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa) trở thành một cường quốc vững mạnh thống
lĩnh các nước láng giềng và được đối xử như là một đối tác ngang hàng
bởi các cường quốc khác. Chính sách ngoại giao mới của Tập Cận Bình dựa
trên 4 trụ cột: quan hệ với các siêu cường, quan hệ với các nước láng
giềng gồm có các quốc gia thành viên trong Khối ASEAN, quan hệ với các
nước đang phát triển (đa số là ở châu Phi) và quan hệ với các thể chế
quốc tế.
Ngay cả trước khi chính thức nhậm chức, Tập Cận Bình
trong một chuyến công du Mỹ vào tháng 2 năm 2012 đã bắt đầu nói về một
mốt quan hệ ngoại giao mới giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ được gọi là “quan
hệ ngoại giao giữa các siêu cường”. Mục đích là để tránh cái bẫy
Thucydides tương tự như khi các quốc gia trổi dậy dẫn đến chiến tranh
như trường hợp của Đức và Nhật Bản. Theo Tập Cận Bình thì những điểm
chính của mốt quan hệ ngoại giao mới này gồm có (1) tránh né xung đột
hoặc đối đầu bằng phương cách đối thoại và đánh giá ý tưởng chiến lược
đôi bên một cách khách quan; (2) tương kính và tôn trọng quyền lợi cốt
lõi của nhau; và (3) hợp tác trên tinh thần đôi bên cùng có lợi bằng
cách từ bỏ tư duy “kẻ được người thua” (zero-sum game mentality). Có một
vài học giả cho rằng mốt quan hệ này đã được áp dụng trong quan hệ
Trung – Nga và khái niệm này cũng có thể được áp dụng trong các mối quan
hệ Trung – Ấn, Trung – Liên Âu và Trung – Nhật. Tuy nhiên, nếu nhìn vế
góc cạnh tránh né xung đột giữa một siêu cường và một cường quốc đang
trỗi lên thì mối quan hệ này chỉ dành riêng cho Trung Quốc và Mỹ.
Thật
ra, khi Tổng Thống Obama viếng thăm Trung Quốc vào tháng 11 năm 2009,
Obama có đề cập tới khái niệm quan hệ lưỡng cường (G-2) giữa Mỹ và Trung
Quốc nhưng Trung Quốc không chấp nhận vì sợ Mỹ gài bẫy phải nhận một
phần trách nhiệm và kinh phí trong việc duy trì an ninh và trật tự toàn
cầu mà nhờ đó, Trung Quốc đã có cơ hội phát triển mau chóng và thành
công trong thời gian qua. Thay vào đó, Trung Quốc chỉ muốn tập trung
nguồn lực vào việc phát triển kinh tế nội địa. Bây giờ thì tình thế lại
đảo ngược. Một số bình luận gia chiến lược cho rằng quan hệ ngoại giao
nước lớn của Tập Cận Bình là một cái bẫy với hàm ý là chia đôi vùng ảnh
hưởng trong khu vực Á châu – Thái Bình Dương. Một nửa thuộc về Mỹ và nửa
kia là của Trung Quốc.
Trong Hội Nghị về các biện pháp xây dựng
lòng tin ờ châu Á (CICA) tổ chức tại Thượng Hải vào tháng 6 năm 2014,
Tập Cận Bình phát biểu là vấn đề an ninh của châu Á nên để cho người Á
châu định đoạt. Có nghĩa là Tập muốn loại vai trò của Mỹ ra khỏi khu
vực. Trên căn bản thì cả hai bên Trung Mỹ đều không tin tưởng nhau về
mặt chiến lược và các hành động leo thang quân sự hóa của Trung Quốc tại
Biển Đông xác nhận mối quan ngại của nhiều viên chức Hoa Kỳ là Trung
Quốc đang tìm cách giới hạn vai trò của Mỹ tại châu Á. Tuy nhiên, hai
bên cũng đạt được một số thành quả ví dụ như thành lập nhiều diễn đàn
đối thoại, trao đổi và hợp tác về mặt quân sự và cả hai đã đạt thỏa
thuận về biến đổi khí hậu dẫn đến Hiệp Ước Biến Đổi Khí Hậu Paris vào
tháng 12 năm 2015. Tóm lại, Hoa kỳ là đối tác quan trọng nhất trong
chiến lược quan hệ ngoại giao nước lớn của Trung Quốc. Một mặt thì Trung
Quốc gia tăng chỉ trích vai trò của Hoa Kỳ với những động thái siết
chặt liên minh quân sự trong vùng nhưng mặt khác Trung Quốc theo đuổi
một cuộc mặc cả lớn hầu chia đôi vai trò thống lĩnh với Mỹ trong khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
Ngoại giao láng giềng
Trụ
cột thứ hai là ngoại giao láng giềng. Trong một phiên họp Trung Ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm 2013, Tập Cận Bình khai triển
khái niệm “khu vực láng giềng rộng lớn”. Từ đó dẫn đến kế hoạch xây dựng
và kết nối hệ thống hạ tầng cơ sở cho toàn khu vực nối liền Trung Quốc
ngang trung Á và châu Âu qua Con Đường Tơ Lụa và xuống Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương bằng Con Đường Tơ Lụa Hàng Hải. Trung Quốc đã thành lập
Quỹ Con Đường Tơ Lụa trị giá 40 tỷ Mỹ kim cùng lúc với Ngân Hàng Đầu Tư
Cơ sở Hạ tầng châu Á vào tháng 10 năm 2014. Đây có thể nói là một chiến
thắng ngoại giao ngoạn mục của Trung Quốc vì Mỹ đã cố sức vận động các
quốc gia đồng minh gồm có Anh, Đức, Úc và Nam Hàn không gia nhập nhưng
thất bại. Thắng lợi ngoại giao này gỡ gạc một phần nào đó uy tín của
Trung Quốc sau cách hành xử hung hăng như thiết lập vùng nhận dạng phòng
không trong vùng Biển Hoa Đông, chiếm chọn bãi cạn Hoàng Nham mà Phi
Luật Tân đòi hỏi chủ quyền và đặt giàn khoản Hải Dương 981 trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Trung Quốc từ chối tham gia
vụ kiện “Đường Lưỡi bò” của Phi Luật Tân và không chấp nhận mọi giải
pháp đa phương trong việc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tóm lại,
chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc dựa trên nguyên tắc
“thưởng phạt” bằng miếng mồi kinh tế và “chia để trị”. Điều này làm
nhiều quốc gia trong khu vực tìm đến sự hỗ trợ và xây dựng quan hệ quân
sự gần gũi hơn với Mỹ như là một hình thức bảo hiểm (hedging).
Tuy
thường xuyên trấn an các nước trong vùng về tính “trỗi dậy hòa bình”
nhưng giới lãnh đạo ngày càng nhấn mạnh lập trường của Trung Quốc là sẽ
không thỏa hiệp lợi ích cốt lõi gồm có “chủ quyền lịch sử không thể chối cãi của Trung Quốc”
tại Biển Đông. Quan điểm này dẫn đến sự diễn giải là Trung Quốc sẽ sẵn
sàng sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông và Biển Hoa
Đông với các quốc gia láng giềng. Cũng không thấy Trung Quốc ghi nhận
lợi ích cốt lõi của các nước láng giềng ví dụ như chủ quyền Senkaku của
Nhật và Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Những hành động hung hăng
như xây dựng đảo nhân tạo và đường băng cũng như chuyển vũ khí ra Biển
Đông cho thấy lời nói của Trung Quốc không đi đôi với việc làm. Giấc mơ
Trung Hoa về mặt căn bản là đòi lại vị trí thống lĩnh truyền thống trong
lịch sử qua nhiều triều đại của Trung Quốc bị gián đoạn bởi chủ nghĩa
thực dân của phương Tây. Nhưng có một sự thật không thể chối cãi là sự
phát triển của Trung Quốc trong 3 thập niên qua là nhờ vào một hệ thống
trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp và tập quán quốc tế do Tây phương
đặt ra nhưng bây giờ thì Trung Quốc có vẻ lại muốn thách thức trật tự
này.
Thật ra, những mâu thuẫn trong chính sách ngoại giao của
Trung Quốc có lẽ xuất phát từ động cơ duy nhất là duy trì độc quyền
thống trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Lý tưởng cộng sản đã không còn
hữu dụng. Tính chính danh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc phải dựa vào sự
phát triển kinh tế và khích động chủ nghĩa dân tộc. Chắc chắn là Trung
Quốc có tiềm năng trở thành một siêu cường quốc nhưng cũng đối diện với
nhiều hạn chế.
Tuy nền kinh tế vươn lên đứng thứ hai trên thế giới
nhưng không dựa trên cấu trúc vững vàng với hệ thống doanh nghiệp nhà
nước kém hiệu quả và mang đầy nợ xấu làm hệ thống ngân hàng có thể sụp
đổ bất cứ lúc nào. Mặc dù chiến dịch đả hổ diệt ruồi răn đe được một số
viên chức nhưng hiện tượng tham nhũng trong các thể chế độc quyền độc
đảng là bất khả trị. Đặc biệt là tham nhũng trong giới quân đội đặt ra
nhiều nghi vấn về khả năng chiến đấu của tướng lãnh và binh sĩ.
Một
mặt Trung Quốc muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế nhưng mặt khác Tập Cận
Bình lại gia tăng đàn áp và bắt bớ giới trí thức gồm có nhà văn, nhà
báo, luật sư và các tổ chức xã hội dân sự cần thiết cho sự sáng tạo và
phát triển kinh tế và xã hội. Chính sách ngoại giao dựa trên hình thức
đe dọa và đồng tiền mua chuộc có nghĩa là Trung Quốc không tìm được một
đồng minh nào thật sự trong khu vực. Khi có xung đột giữa kinh tế và an
ninh quốc gia, đối tác sẽ sẵn sàng trở mặt vì chủ quyền lãnh thổ và lãnh
hải là thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Khi cơn bão Hải Yến vào
tháng 11 năm 2013 sát hại hơn 6000 người và hủy diệt nhà cửa của gần 1
triệu dân Phi Luật Tân, Nhật Bản đóng góp cứu trợ 10 triệu, Mỹ 20 triệu
và Úc 28 triệu. Trung Quốc đóng góp $100,000 (ít hơn con số đóng góp của
Cộng đồng người Việt tại Úc). Sau khi cả thế giới lên tiếng chỉ trích
thì Trung Quốc mới tăng con số cứu trợ lên 1.6 triệu (vẫn ít hơn con số
cứu trợ của công ty Ikea).
Giới lãnh đạo Trung Quốc không hiểu
rằng thế giới đánh giá một siêu cường quốc đáng kính nể không chỉ qua
các yếu tố như dân số, GDP, ngân sách quốc phòng, mà còn nhìn vào tư
cách, văn hóa và những đóng góp chung cho nhân loại của quốc gia đó. Có
lẽ giấc mơ Trung Hoa của Tập Cận Bình sẽ biến Trung Quốc thành một nền
kinh tế lớn mà các nước khác muốn nhào vô ăn có nhưng bên trong thì họ
luôn luôn ngờ vực và chán ghét.
https://anhbasam.wordpress.com/2016/04/14/7821-chinh-sach-ngoai-giao-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh/#more-163907
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét