Chinhphu / Dantri
Tờ South Morning China Post xuất bản ở Hong
Kong ngày 24/5 đăng bài phân tích của Philip Bowring, nhà bình luận
chính trị đã có gần 40 năm hoạt động tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
phê phán các hành vi của Trung Quốc với các nước láng giền ở Biển Đông
Nhà
bình luận Philip Bowring viết : “Các hành vi hiện nay của Trung Quốc
với các láng giềng ở Biển Đông mang tính gây hấn, ngạo mạn, mang hơi
hướng chủ nghĩa sô-vanh Đại Hán và tư tưởng coi dân tộc mình hơn tất
thảy. Không còn là sự thể hiện niềm tự hào quốc gia, nó đang làm ô danh
chủ nghĩa ái quốc.
Bắc Kinh không chỉ nhe nanh thể hiện chủ nghĩa bành trướng với Việt Nam và Philippines. Trung Quốc đã thành công trong việc đẩy Indonesia từ vị trí cố gắng đóng vai trò trung gian hòa giải giữa quốc gia đông dân nhất thế giới và các nước Đông Nam Á, tới chỗ đối đầu. Hai lần trong mấy tháng gần đây, Indonesia lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với một phần quần đảo Natuna của nước này. Quá đủ cho cái gọi là “sự trỗi dậy hòa bình”, khi anh chọc giận các hàng xóm với quy mô dân số hơn 400 triệu người, những kẻ bị anh xem là yếu ớt.Tất cả các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc hiện gói gọn quanh đường 9 đoạn, mở rộng ra hơn 1.000 hải lý, bắt đầu từ các bờ biển của Quảng Đông và đảo Hải Nam, kéo dài tới gần Borneo, quần đảo chung của Malaysia, Indonesia và Brunei; bao gồm gần như toàn bộ vùng biển nằm giữa Việt Nam và Philippines. Tuyên bố chủ quyền này chiếm hơn 90% diện tích biển, dù Trung Quốc (gồm cả hòn đảo Đài Loan) chỉ chiếm có hơn 20% đường bờ biển. Tất cả tuyên bố chủ quyền này dựa trên một cơ sở lịch sử về cơ bản là không tính đến sự tồn tại của các dân tộc khác, cũng như lịch sử đi lại, giao thương trên biển của họ trong vòng 2.000 năm qua, trước cả khi Trung Quốc bắt đầu đặt chân tới các vùng biển nằm ở phía Nam đất nước và xa hơn. Trong trường hợp của cuộc đối đầu hiện nay giữa Trung Quốc với Việt Nam, diễn ra khi Bắc Kinh kéo giàn khoan nước sâu hải Dương 981 vào vùng biển nằm ở phía Đông Đà Nẵng và viện dẫn việc quần đảo Hoàng Sa bị họ chiếm đóng nằm gần với vị trí của giàn khoan, lấy đó là cơ sở biện minh cho hành động của mình. Nhưng quần đảo Hoàng Sa, nơi đã bị Trung Quốc bất ngờ đánh chiếm trái phép trong năm 1974, đang là địa điểm diễn ra tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam. Do quần đảo Hoàng Sa chưa từng có người định cư lâu dài, sẽ vô cùng khó để Trung Quốc đòi lập khu vực đặc quyền kinh tế kéo dài 200 hải lý như phía Việt Nam.
Lịch sử cũng cho chúng ta biết rằng bờ biển này (Biển Đông) từng là trái tim của Vương quốc Champa cổ rất mạnh về giao thương, trong vòng 1.000 năm đã đóng vai trò chủ đạo về giao thương trong khu vực.
Nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc đang vây một tàu kiểm ngư của Việt Nam (Ảnh Lao động)
Các quốc gia khác trong khu vực như Indonesia, Singapore, Malaysia đều đã đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo lên Tòa án Tư pháp quốc tế và chấp nhận kết quả do Tòa phán quyết. Nhưng Trung Quốc vẫn không chấp nhận thỏa hiệp hoặc ra tòa. Trong khi đó, hoạt động cùng phát triển khu vực tranh chấp không thể diễn ra, bởi Bắc Kinh luôn kèm theo điều kiện các nước phải chấp nhận tuyên bố chủ quyền mà họ đưa ra.
Trong trường hợp một bãi cạn ngoài khơi bờ biển Philippines, Trung Quốc đã tuyên bố có chủ quyền với bãi cạn này dựa trên việc sáng tác ra lịch sử của nó và dựa trên việc họ tuyên bố chủ quyền… trước Philippines. Đây là một cơ sở rất tồi, nếu biết rằng Trung Quốc chưa từng có sự hiện diện thường xuyên ở bãi cạn và Philippines đã được thừa hưởng nó từ một thỏa ước giữa hai đế quốc thực dân phương Tây. Các bãi cạn này dù được Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền, lại nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế Philippines và trong vùng biển từ lâu vẫn chứng kiến việc người dân ở nước này lui tới bình thường. Cần biết rằng bãi cạn Scarborough nằm cách Luzon có 200km và cách Trung Quốc tới 650 km. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với bãi cạn Trăng Khuyết còn đáng phẫn nộ hơn. Thực tế bãi đá này cách Palawan 110km và gần 1.500km so với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc viện dẫn cơ sở các tuyên bố chủ quyền của họ có từ thời Quốc dân đảng là rất phi lý. Tương tự, việc nhiều quốc gia trước đây từng phải cống nạp cho Trung Quốc cũng không thể được lôi ra làm căn cứ khẳng định chủ quyền. Hoạt động cống nạp của các quốc gia đó chỉ giống như đóng thuế, một dạng chi phí khi làm ăn với Trung Quốc.
Và kể cả Trung Quốc có lúc đã từng là một đế chế lớn trong quá khứ, điều này cũng không thể được sử dụng làm cơ sở để đòi quyền sở hữu một vùng biển rộng lớn như Biển Đông.
Có thể thấy Trung Quốc đang muốn giương oai giễu võ và cho thấy ai là “trùm sò” trong khu vực, giống như nước này từng làm với Việt Nam vào năm 1979, và nhắc nhở Mỹ về điểm yếu của mình. Nhưng sự kiện cũng cho thấy việc Trung Quốc chẳng muốn coi các hàng xóm không thuộc dân tộc Đại Hán là bình đẳng với mình; không đối xử đúng mực với những dân tộc đã có lịch sử và văn hóa hầu như chẳng chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc.
Lịch sử của Trung Quốc trong việc kiêu căng cho rằng mình ưu việt hơn (về chủng tộc), đặc biệt là trước những con người có làn da sẫm màu hơn, đã kéo dài.
Niềm tin vào thuyết ưu sinh và nhu cầu bảo vệ, mở rộng các đặc tính di truyền học Đại Hán đã từng nở rộ. Và nay nó đã trở lại ở đại lục, nơi một số học giả tin rằng thật khó để chấp nhận người hiện đại có cái gốc ở châu Phi và Trung Quốc mới thực sự là cái rốn của nhân loại, nguồn gốc độc nhất vô nhị của loài người”.
Tại sao Trung Quốc sử dụng giàn khoan, vòi rồng và các vụ va chạm tàu ở Biển Đông?
Chuyên gia Robert Kaplan, nhà phân tích địa chính trị hàng đầu của Strafor, phân tích nguyên nhân tại sao Trung Quốc sử dụng giàn khoan, vòi rồng và các vụ va chạm tàu ở Biển Đông. Ông nói: Người Trung Quốc đặt ra tình huống như sau: Chúng tôi có thể làm tất cả, ngoại trừ chiến tranh, để hăm dọa bởi chúng tôi có sức mạnh ở đây. Đó chính xác là những gì Trung Quốc đang nghĩ. Họ cho rằng Việt Nam về cơ bản không thể bắn vào tàu của họ, không thể đánh chìm tàu của Trung Quốc và rằng người Việt Nam sẽ không tấn công giàn khoan. Trung Quốc cũng nhận định rằng nước Mỹ, trong khi đã đưa ra một hay hai tuyên bố mạnh mẽ, tất nhiên sẽ không can dự vào cuộc xung đột Trung Quốc-Việt Nam.
Việc Trung Quốc có hoạt động khoan dầu ở đó có nghĩa rằng, trong thực tế, khu vực này sẽ trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Đó là lớp cắt khác của hành động xâm chiếm không gian biển đang có tranh chấp. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang tiến hành những điều khác nữa. Hãy nhớ rằng lợi ích chiến lược cuối cùng của Trung Quốc là thống trị Biển Đông, giúp nước này sau đó có thể dễ dàng tiếp cận Ấn Độ Dương và khu vực Thái Bình Dương rộng hơn, tương tự cách thức mà Mỹ thống trị Caribe hồi thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khiến Mỹ trở thành một cường quốc thế giới.
Trung Quốc đang tiến hành âm thầm, dần từng bước một cách tinh vi-cuối cùng để từ từ giành quyền chi phối vùng biển này mà không cần sử dụng đến một viên đạn, và đặc biệt không phải lôi kéo Hải quân Mỹ vào một cuộc xung đột.
Bắc Kinh không chỉ nhe nanh thể hiện chủ nghĩa bành trướng với Việt Nam và Philippines. Trung Quốc đã thành công trong việc đẩy Indonesia từ vị trí cố gắng đóng vai trò trung gian hòa giải giữa quốc gia đông dân nhất thế giới và các nước Đông Nam Á, tới chỗ đối đầu. Hai lần trong mấy tháng gần đây, Indonesia lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với một phần quần đảo Natuna của nước này. Quá đủ cho cái gọi là “sự trỗi dậy hòa bình”, khi anh chọc giận các hàng xóm với quy mô dân số hơn 400 triệu người, những kẻ bị anh xem là yếu ớt.Tất cả các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc hiện gói gọn quanh đường 9 đoạn, mở rộng ra hơn 1.000 hải lý, bắt đầu từ các bờ biển của Quảng Đông và đảo Hải Nam, kéo dài tới gần Borneo, quần đảo chung của Malaysia, Indonesia và Brunei; bao gồm gần như toàn bộ vùng biển nằm giữa Việt Nam và Philippines. Tuyên bố chủ quyền này chiếm hơn 90% diện tích biển, dù Trung Quốc (gồm cả hòn đảo Đài Loan) chỉ chiếm có hơn 20% đường bờ biển. Tất cả tuyên bố chủ quyền này dựa trên một cơ sở lịch sử về cơ bản là không tính đến sự tồn tại của các dân tộc khác, cũng như lịch sử đi lại, giao thương trên biển của họ trong vòng 2.000 năm qua, trước cả khi Trung Quốc bắt đầu đặt chân tới các vùng biển nằm ở phía Nam đất nước và xa hơn. Trong trường hợp của cuộc đối đầu hiện nay giữa Trung Quốc với Việt Nam, diễn ra khi Bắc Kinh kéo giàn khoan nước sâu hải Dương 981 vào vùng biển nằm ở phía Đông Đà Nẵng và viện dẫn việc quần đảo Hoàng Sa bị họ chiếm đóng nằm gần với vị trí của giàn khoan, lấy đó là cơ sở biện minh cho hành động của mình. Nhưng quần đảo Hoàng Sa, nơi đã bị Trung Quốc bất ngờ đánh chiếm trái phép trong năm 1974, đang là địa điểm diễn ra tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam. Do quần đảo Hoàng Sa chưa từng có người định cư lâu dài, sẽ vô cùng khó để Trung Quốc đòi lập khu vực đặc quyền kinh tế kéo dài 200 hải lý như phía Việt Nam.
Lịch sử cũng cho chúng ta biết rằng bờ biển này (Biển Đông) từng là trái tim của Vương quốc Champa cổ rất mạnh về giao thương, trong vòng 1.000 năm đã đóng vai trò chủ đạo về giao thương trong khu vực.
Nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc đang vây một tàu kiểm ngư của Việt Nam (Ảnh Lao động)
Các quốc gia khác trong khu vực như Indonesia, Singapore, Malaysia đều đã đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo lên Tòa án Tư pháp quốc tế và chấp nhận kết quả do Tòa phán quyết. Nhưng Trung Quốc vẫn không chấp nhận thỏa hiệp hoặc ra tòa. Trong khi đó, hoạt động cùng phát triển khu vực tranh chấp không thể diễn ra, bởi Bắc Kinh luôn kèm theo điều kiện các nước phải chấp nhận tuyên bố chủ quyền mà họ đưa ra.
Trong trường hợp một bãi cạn ngoài khơi bờ biển Philippines, Trung Quốc đã tuyên bố có chủ quyền với bãi cạn này dựa trên việc sáng tác ra lịch sử của nó và dựa trên việc họ tuyên bố chủ quyền… trước Philippines. Đây là một cơ sở rất tồi, nếu biết rằng Trung Quốc chưa từng có sự hiện diện thường xuyên ở bãi cạn và Philippines đã được thừa hưởng nó từ một thỏa ước giữa hai đế quốc thực dân phương Tây. Các bãi cạn này dù được Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền, lại nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế Philippines và trong vùng biển từ lâu vẫn chứng kiến việc người dân ở nước này lui tới bình thường. Cần biết rằng bãi cạn Scarborough nằm cách Luzon có 200km và cách Trung Quốc tới 650 km. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với bãi cạn Trăng Khuyết còn đáng phẫn nộ hơn. Thực tế bãi đá này cách Palawan 110km và gần 1.500km so với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc viện dẫn cơ sở các tuyên bố chủ quyền của họ có từ thời Quốc dân đảng là rất phi lý. Tương tự, việc nhiều quốc gia trước đây từng phải cống nạp cho Trung Quốc cũng không thể được lôi ra làm căn cứ khẳng định chủ quyền. Hoạt động cống nạp của các quốc gia đó chỉ giống như đóng thuế, một dạng chi phí khi làm ăn với Trung Quốc.
Và kể cả Trung Quốc có lúc đã từng là một đế chế lớn trong quá khứ, điều này cũng không thể được sử dụng làm cơ sở để đòi quyền sở hữu một vùng biển rộng lớn như Biển Đông.
Có thể thấy Trung Quốc đang muốn giương oai giễu võ và cho thấy ai là “trùm sò” trong khu vực, giống như nước này từng làm với Việt Nam vào năm 1979, và nhắc nhở Mỹ về điểm yếu của mình. Nhưng sự kiện cũng cho thấy việc Trung Quốc chẳng muốn coi các hàng xóm không thuộc dân tộc Đại Hán là bình đẳng với mình; không đối xử đúng mực với những dân tộc đã có lịch sử và văn hóa hầu như chẳng chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc.
Lịch sử của Trung Quốc trong việc kiêu căng cho rằng mình ưu việt hơn (về chủng tộc), đặc biệt là trước những con người có làn da sẫm màu hơn, đã kéo dài.
Niềm tin vào thuyết ưu sinh và nhu cầu bảo vệ, mở rộng các đặc tính di truyền học Đại Hán đã từng nở rộ. Và nay nó đã trở lại ở đại lục, nơi một số học giả tin rằng thật khó để chấp nhận người hiện đại có cái gốc ở châu Phi và Trung Quốc mới thực sự là cái rốn của nhân loại, nguồn gốc độc nhất vô nhị của loài người”.
Tại sao Trung Quốc sử dụng giàn khoan, vòi rồng và các vụ va chạm tàu ở Biển Đông?
Chuyên gia Robert Kaplan, nhà phân tích địa chính trị hàng đầu của Strafor, phân tích nguyên nhân tại sao Trung Quốc sử dụng giàn khoan, vòi rồng và các vụ va chạm tàu ở Biển Đông. Ông nói: Người Trung Quốc đặt ra tình huống như sau: Chúng tôi có thể làm tất cả, ngoại trừ chiến tranh, để hăm dọa bởi chúng tôi có sức mạnh ở đây. Đó chính xác là những gì Trung Quốc đang nghĩ. Họ cho rằng Việt Nam về cơ bản không thể bắn vào tàu của họ, không thể đánh chìm tàu của Trung Quốc và rằng người Việt Nam sẽ không tấn công giàn khoan. Trung Quốc cũng nhận định rằng nước Mỹ, trong khi đã đưa ra một hay hai tuyên bố mạnh mẽ, tất nhiên sẽ không can dự vào cuộc xung đột Trung Quốc-Việt Nam.
Việc Trung Quốc có hoạt động khoan dầu ở đó có nghĩa rằng, trong thực tế, khu vực này sẽ trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Đó là lớp cắt khác của hành động xâm chiếm không gian biển đang có tranh chấp. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang tiến hành những điều khác nữa. Hãy nhớ rằng lợi ích chiến lược cuối cùng của Trung Quốc là thống trị Biển Đông, giúp nước này sau đó có thể dễ dàng tiếp cận Ấn Độ Dương và khu vực Thái Bình Dương rộng hơn, tương tự cách thức mà Mỹ thống trị Caribe hồi thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khiến Mỹ trở thành một cường quốc thế giới.
Trung Quốc đang tiến hành âm thầm, dần từng bước một cách tinh vi-cuối cùng để từ từ giành quyền chi phối vùng biển này mà không cần sử dụng đến một viên đạn, và đặc biệt không phải lôi kéo Hải quân Mỹ vào một cuộc xung đột.
Theo Nguyễn Chiến
Chính phủ
Chính phủ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét