Phiatruoc
Phần II và – Cuối
Lời người dịch: Dưới
đây là bản dịch một bài viết hiếm hoi và quan trọng bằng Anh ngữ của
một tác giả ngoại quốc khảo sát vấn đề chủ quyền các Quần Đảo Hoàng Sa
và Trường Sa qua việc nghiên cứu chính các tác phẩm bằng chữ Hán mà phía
Trung Quốc vẫn hay dẫn chứng làm bằng cớ lịch sử của họ.
Tác giả, Giáo Sư người Mexico, Ulises Granados, thuộc University of
Tokyo, Nhật Bản khi viết bài nghiên cứu này, đã đưa ra các nhận định
quan trọng như sau:
….Trong
thực tế, phán đoán theo các nguồn tài liệu nhà Minh tiêu biểu này, xem
ra rất khó để tin rằng các nhà cầm quyền Trung Hoa đã sáp nhập bất kỳ
một trong bốn quần đảo vào đế quốc gì cả.
… [C]ác hòn đảo và các bãi san hô của khu vực này còn lâu mới thuộc vào sự kiểm soát chính thức của Trung Hoa….
… Trong
trọn thời nhà Minh đến cuối nhà Thanh, các tài liệu về các hoạt động
được quy định bởi chính quyền tại các quần đảo đã vắng bóng trong các
nguồn tài liệu Trung Hoa, tượng trưng cho một sự im lặng tương ứng trong
sử ký Trung Hoa…
… Trong
thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng được
đánh dấu trên vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này không hoàn
toàn đồng nhất, nhóm Paracels vẫn còn được xác định là Vạn Lý Trường Sa
trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm Spratlys được
gọi hoặc là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch Đường. Tuy
nhiên, điều rõ ràng khi khảo sát nhiều bản đồ cho thấy rằng địa điểm
đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng các sự mô
tả các hòn đảo và san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên. Thí
dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai nhóm Paracels và
Spratlys đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung Hoa. Tuy nhiên,
bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến
Lục, Dương Hoàn Chí Lược và Hải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo song
song với đất liền….
…[C]ác
tài liệu địa dư Trung Hoa từ thời nhà Minh và nhà Thanh, và các bản đồ
Âu Châu (đặc biệt được lập bởi các thủy thủ Bồ Đào Nha và Anh Quốc), 71
cho thấy Quần Đảo Paracels, Pratas, Macclesfield Bank và Spratlys chỉ
là các dấu chấm hay các nét vạch. Như đã ghi nhận ở trên, dường như đã
có sự thiếu sót kiến thức chi tiết về địa dư của các hòn đảo và bãi đá
ngầm này, bởi chúng bị xem chỉ có tầm quan trọng thấp kém…
… Tác
giả này tin tưởng rằng để khởi sự gỡ rối cuộc xung đột các hòn đảo Biển
Nam Trung Hoa, giờ đây liên hệ đến Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei, cũng
như Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam, cuộc thảo luận phải được đóng
khung vào các diễn biến xảy ra từ cuối thế kỷ thứ mười chín hay đầu thế
kỷ thứ hai mươi. Việc khảo sát các biến cố xa hơn vào quá khứ có tiềm
năng bước vào lãnh vực huyền thoại – đặc biệt bởi các nguồn tài liệu
Trung Hoa được đặc trưng bởi vô số lỗ hổng và sự im lặng – nơi các sự tự
thuật tinh vi có thể kết tinh thành các lịch sử quốc gia chính thức
không khoan nhượng…
…Chính
vì thế, các chuyên gia luật quốc tế có một bổn phận phải khảo sát tài
liệu lịch sử trong một cung cách cẩn thận, hầu mang lại các câu trả lời
và các giải pháp khả dĩ chấp nhận được cho sự rắc rối lãnh thổ khó phân
xử này.
Tác giả
có nhắc tới một cách vắn tắt sự đối chọi trực tiếp của Việt Nam đối với
các luận điểm về bằng chứng lịch sử của Trung Quốc và Đài Loan trong
cuộc tranh chấp chủ quyền các quần đảo ở Biển Đông. Nhìn chung, công
luận thế giới và luật quốc tế dễ dàng nhìn thấy các điểm phi lý của phía
Trung Quốc và Đài Loan một khi nội vụ được khởi kiện tại tòa án quốc tế
liên hệ.
Trên
cùng đề tài này, độc giả có thể tìm đọc một công trình thâm cứu của cố
Giáo Sư Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham, nhan đề Hoàng Sa và Trường Sa, Lãnh
Thổ Việt Nam, được đăng tải trong tập san Sử Địa, số 29, Tháng 1-Tháng
3, 1975. /-
***
Trong cuộc
tranh giành chủ quyền bốn quần đảo Biển Nam Trung Hoa (South China Sea)
[Việt Nam gọi là biển Đông, chú của người dịch] – chính yếu là Quần Đảo
Hoàng Sa (Paracel Islands) (Xidsha Qundao 西沙群島, Tây Sa Quần Đảo) và Quần
Đảo Trường Sa (Spratly Islands) (Nansha Qundao 南沙群島 Nam Sa Quần Đảo),
nhưng cũng gồm Pratas Islands (Dongsha Qundao 東沙群島 Đông Sa Quần Đảo) và
Bãi Cát Macclesfield (Zhongsha Qundao 中沙群島 Trung Sa Quần Đảo) — Trung
Quốc dựa nhiều vào các nguồn tài liệu lịch sử để tuyên nhận rằng các đảo
này đều được biết đến và nằm dưới thẩm quyền đế quốc từ các thời đại cổ
xưa.1 Trước khi có cuộc thị sát hải quân đầu tiên được phái
đến Quần Đảo Hoàng Sa thời Mãn Châu năm 1909, các nguồn tài liệu Trung
Hoa bao gồm các sự mô tả địa dư và các hải trình, cũng như các bản đồ. 2
Một số trong các tài liệu tham khảo này là bẩy cuộc du hành nổi tiếng
(1405-33) của Đô Đốc Trịnh Hòa 鄭和dưới thời nhà Minh 明 (1368-1644), trong
khi các tài liệu khác có niên kỳ thời nhà Tống 宋 (960-1279) và nhà
Nguyên 元 (1277-1367) hay ngay cả trước đó.
Các khái
niệm pháp lý cổ điển về chủ quyền lãnh thổ, địa hạt tài phán và quyền
chủ tể, phải được sử dụng với sự thận trọng khi phân tích các sự tuyên
xác trên các Đảo thuộc Biển Nam Trung Hoa trong hai triều đại sau cùng. 3 Một số khái niệm có ý nghĩa khi áp dụng cho các đơn vị lãnh thổ được cư trú
bởi các thần dân nằm dưới một số loại thẩm quyền. Lãnh thổ như thế
hoặc có thể được sở hữu và nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp – có nghĩa,
quyền lực tối cao, chuyên độc của các định chế chính phủ hay các đại
diện chính trị khác, hay là lãnh thổ của một chính thể riêng biệt thừa
nhận một mối quan hệ của quyền chủ tể. Trong khuôn khổ các quan hệ
triều cống với đế quốc Trung Hoa, một sự nhìn nhận quyền chủ tể được lựa
chọn bởi một số chính thể nhằm hưởng thụ một sự chung sống hòa bình và
các đặc ưu mậu dịch trong phạm vi trật tự thế giới Trung Hoa. 4
Khi có các
sự tuyên nhận mâu thuẫn trên các hòn đảo có người cư trú thường xuyên
hay hoàn toàn bỏ hoang, các chuyên viên luật quốc tế thường dựa vào các
học thuyết đã được thiết lập vững chắc – các nguyên tắc pháp lý quốc tế
chi phối sự sở đắc chủ quyền – hầu xác định nước nào có các quyền hạn về
bằng khoán trên một mảnh đất nào đó. 5 Luật quốc tế còn quy
định cả khả tính của một lãnh thổ trên đó hiện không có (hay đã chưa
từng có) chủ quyền tại một thời điểm cá biệt, qua việc sử dụng từ ngữ terra nullius: vùng đất không thuộc về nước nào
[một thành ngữ bằng tiếng La Tinh trong luật La Mã, được dùng trong
luật quốc tế hiện đại để chỉ vùng đất chưa hề thuộc chủ quyền của bất kỳ
nước nào, hay trên đó bất kỳ chủ quyền nào trước đây chưa công khai hay
mặc nhiên từ bỏ chủ quyền của mình. Chủ quyền trên phần đất vô chủ có
thể được sở đắc xuyên qua sự chiếm ngụ, mặc dù trong một số trường hợp,
làm như thế là vi phạm luật hay hiệp định quốc tế. Một trong sự giải
thích xa hơn cho rằng vì là vùng đất vô chủ, kẻ nào đầu tiên khám phá ra
nó được quyền sở đắc nó. Chú của người dịch] . Không cần nói, các sự
phân tích pháp lý như thế (không phải là tiêu điểm của bài viết này) tùy
thuộc vào sự nghiên cứu lịch sử về vụ án trong tay.
Cuộc
nghiên cứu này bao gồm chủ yếu thời kỳ từ sự thành lập nhà Minh cho đến
các thập kỷ cuối cùng của nhà Thanh 请 (1644-1911). Như sẽ được trình
bày dưới đây, trong khi một mức độ nào đó của thẩm quyền chính trị xem
ra có hiện diện trên các vùng hàng hải của phần phía bắc của biển này kề
cận với bờ biển (tức, biên cương hàng hải: maritime frontier: haijiang 海疆hải cương hay “lãnh thổ duyên hải: littoral territory: yanhai jiangyu 沿海疆域duyên hải cương vực
“), các nhà chức trách Trung Hoa đã không thực hiện bất kỳ hành vi nào
để sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc. Trong thực tế,
sự thảo luận vẫn tiếp tục trong các giới học thuật về việc liệu:
1. sự ghi chép không thôi sự hiện diện của các hòn đảo trong các nguồn tài liệu thành văn (được mô tả như các “điểm: dots” trong một vài bản đồ), có nghĩa là thẩm quyền chủ tể, hay quyền lực chuyên độc trên các vùng đất này, và
2. sự hiện
diện của các ngư phủ Trung Hoa sinh sống trên các hòn đảo hay khai thác
biển quanh chúng là đủ để viện dẫn các quyền hạn hay không.
Nhiều tác giả Trung Hoa bàn luận về khía cạnh này của sự tuyên nhận đã
khẳng định nhiều lần quan điểm này, một cách mặc nhiên hay công khai. 6
Các lập luận của Trung Hoa về sự xung đột Biển Nam Hải thì nhất quán trong việc khẳng quyết rằng kiến thức
về biển – các tuyến đường mậu dịch và các hòn đảo của nó – được mô tả
trong các tài liệu thành văn hẳn phải chuyên chở hiệu lực của các sự
tuyên nhận hợp pháp, bất kể các tài liệu chính thức, các bản đồ tư nhân,
hay các bản đồ hải hành của các tuyến đường lái thuye6`n tư nhân đã
trình bày về khu vực ra sao. Tức, việc xác định không thôi sự hiện diện
của các tên gọi cổ xưa của các hòn đảo trong các nguồn tài liệu là đủ
để chứng minh rằng các vùng đất xa xôi đó đã được cai trị bởi nhà Minh
và nhà Thanh. Tuy nhiên, sự phân tích một số tài liệu tiêu biểu từ nhà
Minh cho đến Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất (1839-42) phát hiện
các trình độ khác nhau của kiến thức về các biển và các đảo này. Hơn
nữa, một số tài liệu nhà Thanh đã lập lại, gần như từng chữ một, các tên
gọi thời nhà Minh trước kia và các sự mô tả về các vùng nguy hiểm và xa
xôi này vốn bị xem là không an toàn cho sự hải hành.
Vì
thế, để trả lời nhiều lập luận cốt lõi lịch sử của Trung Hoa, điều quan
trọng cần phơi bày lý do tại sao không có sự hiện diện chính thức của
Trung Hoa tại các hòn đảo được lập chứng (documented) trước cuối thời
nhà Thanh. Lập luận trọng tâm của cuộc nghiên cứu này rằng “việc hiểu
biết về” Các Hòn Đảo Biển Nam Hải, không đồng nghĩa với việc “cai trị”
hay có các quyền hạn trên chúng. Bài viết sẽ nghiên cứu lịch sử (và sự
viết sử ký của Trung Hoa) về Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) qua
việc thảo luận về các tài liệu quan trọng thời nhà Minh và nhà Thanh,
cũng như các tài liệu thứ yếu. Trước tiên, nó đặt kiến thức địa dư về
vùng Biển Nam Trung Hoa như được trình bày trong các nguồn tài liệu nhà
Minh và nhà Thanh trong khuôn khổ sự phân chia “Tây Dương: xiyang 西洋, Western Ocean) – Đông Dương: dongyang東
洋, Eastern Ocean” của Trung Hoa và các sự thảo luận về nơi chốn hai
biển này gặp nhau. Sự phân chia này để chỉ một biên cương khá lờ mờ
giữa các khu vực ảnh hưởng Trung Hoa và phi Trung Hoa, và như một khu
vực của hoạt động hải hành thường xuyên của Trung Hoa. Trong khung cảnh
này điều cần ghi nhận rằng, trái với các sự trình bày địa dư phong phú
về các điểm xa xôi của “Biển Phương Nam: Southern Sea”, các sự đề cập
đến các hòn đảo và các bãi san hô của nó vẫn không chính xác và khá mơ
hồ. Kế đó, bài viết này thảo luận đến sự vắng mặt của Trung Hoa từ, và
sự thiếu sót kiểm soát trên, các hải phận này sau các chuyến du hành nổi
tiếng của Trịnh Hòa, như là một hậu quả của các yếu tố nội bộ và đối
ngoại. Sự tách biệt khỏi lãnh hải này đã là lý do chính yếu cho sự
thiếu sót các hoạt động chính thức, hay được quy định chính thức, trên
các hòn đảo, và cho sự lập lại các sự tham chiếu không chính xác trong
các sự trình bày địa dư sau này, ngay cả trong các tài liệu lịch sử địa
phương. Sau cùng, cuộc nghiên cứu này mở ra khả tính của việc nhìn Biển
Nam Trung Hoa như một khu vực được sử dụng cho các hoạt động khác nhau
của bởi người Trung Hoa, người dân Đông Nam Á, người Ả Rập và các người
Âu Châu. Bản thân sự sắp xếp lại ý niêm (reconceptualisation) này cho
phép các sự vắng mặt rõ rệt trong sự trần thuật của Trung Hoa được khỏa
lấp. Sau cùng, bài viết này nhấn mạnh đến nhu cầu duy trì một tình
trạng phân đôi (dichotomy) giữa “việc hiểu biết về khu vực” với “việc
cai trị khu vực” trong sự phân tích các tài liệu lịch sử về vấn đề này,
một sự lưỡng phân rõ ràng đã được “tẩy xóa” một cách trôi chảy trong sự
viết sử ký Trung Hoa theo quyền lợi dân tộc của họ.
Biển Nam Trung Hoa và sự phân chia giữa Tây Dương và Đông Dương
Từ
lâu trước khi có sự khởi đầu của triều đại nhà Minh, Biển Nam Trung Hoa
đã được xác định trong các tài liệu Trung Hoa. Trong một vài trường
hợp, đây là một khu vực cách biệt mơ hồ, trong các tài liệu khác, như
một phần của một đại dượng rộng lớn hơn bao gồm các hải phận Đông Á
Châu, Đông Nam Á Châu, và Ấn Độ Dương. Sự xác định không gian hàng hải
này được ý niệm hóa xuyên qua sự phân chia “Tây Dương – Đông Dương” đầu
tiên trong thời nhà Tống theo một cách tổng quát, trừu tượng, và sau
này, với chi tiết nhiều hơn, trong thời nhà Nguyên.
Để
giới thiệu các đường nét chính yếu được thảo luận trong các cuộc tranh
luận này, và để hiểu tiến trình của chúng, bài phân tích này sẽ khởi sự
với một ít nguồn tài liệu tiêu biểu trước thời nhà Minh:
Nhà Tống
o Zhou Qufei: Chu Khứ Phi: 周去非, Lingwai Daida: Lĩnh Ngoại Đại Đáp: 嶺外代答(Thông Tin Về Những Gì Bên Ngoài Các Cửa Ải: Information on What Is Beyond the Passes), 1178.
o Zhao Rugua: Triệu Nhữ Quát: 趙汝括, Zhufan zhi: Chư Phiên Chí 諸藩志(Khảo Luận Về Người Nước Ngoài: Treatise on Foreigners), 1225
Nhà Nguyên
o Chen Dazhen Trần Đại Chấn 陳大震, Dade Nanhai zhi大德南海志,Đại Đức Nam Hải Chí (Khảo Luận Về Biển Nam Hải Của Đại Đức), 1304.
o Wang Dayuan 汪大淵 Uông Đại Uyên, Daoyi zhilue 島夷志略Đảo Di Chí Lược (Lược Khảo Về Các Hòn Đảo và Dân Tộc Man Rợ), 1349
Quyển Lĩnh Ngoại Đại Đáp
của Chu Khứ Phi ghi chép rằng Vịnh Bắc Việt (Jiaozhi yang 交趾洋) nằm
phía tây nam của đảo Hải Nam (Qiongya:瓊崖Quỳnh Nhai (hay Nha). Đây là
nơi mà ba tuyến đường đi thuyền quan trọng tìm thấy lối đi của chúng
tiến vào Biển Nam Trung Hoa. Tuyến đầu tiên trong các tuyến đường này
dẫn đến các nước ở hướng nam, tuyến thứ nhì, phía bắc, nối liền Giao Chỉ
Dương với các khu vực duyên hải của Quảng Đông廣東, Phúc Kiến 福建, và
Chiết Giang浙江, và tuyến thứ ba dẫn đến Dongda Yanghai 東大洋海 Đông Đại
Dương Hải). Trong phạm vi Đông Đại Dương Hải này – vùng có thể được
nhận diện là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) – họ Chu xác định
“Changsha長砂 Trường Sa” và “Shitang 石塘 Thạch Đường “, có lẽ để chỉ lần
lượt các quần đảo Paracel và Spratly. 7
Sau này,
trong quyển Chư Phiên Chí, từ ngữ “Donghai 東海Đông Hải “ (Eastern Sea:
Biển Đông) xuất hiện. Trong bản văn này, tác giả Triệu Nhữ Quát có nói
đến phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa như một khu vực nối kết các
tuyến đường mậu dịch giữa Champa (Zhancheng占城Chiêm Thành) và Quảng Châu
(Guangzhou 廣州). 8 Xa hơn về phía nam, Java (Shepo闍婆 Xa Bà
[?]) xuất hiện như điểm xuất phát của một số tuyến đưừng mậu dịch, một
đi về hướng đông, và một đi vế hướng bắc đến đảo Côn Đảo hay Pulau
Condore (Kunlun 崑崙Côn Luân) ngoài khơi cửa sông Mekong, xuyên ngang phần
phía nam của Biển Nam Trung Hoa. 9 Từ Côn Đảo, tuyến đường
được phân chia: một tuyến đường phụ theo hướng tây dẫn đến các hải cảng
Trung Hoa tại Quảng Đông và Phúc Kiến. Tuy nhiên, các giới hạn của
chính Biển Nam Trung Hoa lại không được trình bày rõ ràng trong nguồn
tài liệu này. 10
Vào thời
đại của nhà Nguyên, ý tưởng rằng các biển cả bị giới hạn về tầm mức xem
ra đã có tiến triển. Điều này dẫn đến việc các vùng hàng hải được phân
định một cách rõ ràng hơn. Quyển Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai zhi)
của Trần Đại Chấn là một thí dụ. Trong tác phẩm này, chín chính thể
được xác định: Champa, Cambodia (Zhenla 真臘Chân Lạp), Siam, Tambralinga
(có thể là sườn phía đông của bán đảo Thái Lan, Danmaling 單馬令Đan Mã
Lịnh), Palembang (Srivijaya 三佛霽國 Tam Phật Tề Quốc), Brunei, Tanjongpura (
tại miền nam của đảo Borneo, Danzhongbulan 單重布羅Đan Trọng Bố La), và
Java. Hai trong chúng, Tambralinga và Palembang, thì “phụ trách: guan管quản”
một “Tiểu Tây Dương: Small Western Ocean”); Brunei quản một “Tiểu Đông
Dương: Smal Eastern Ocean”, và hai chính thể (Tanjongpura và Java) đảm
trách Đại Đông Dương: Great Eastern Ocean”. 11 Như tác giả
Roderich Ptak cho thấy, một số khu vực hàng hải đã được phân biệt một
cách rõ ràng: một “Tiểu Tây Dương”, bao gồm Vịnh Thái Lan và bờ biển
phía đông Mã Lai, một “Đại Tây Dương” (không được đề cập một cách công
nhiên) từ Sumatra đến Sri Lanka (Tích Lan) – Ấn Độ Dương, một “Tiểu Đông
Dương” bao gồm Biển Sulu, bờ biển Sarawak, và khu vực các đảo
Mindoro-Mindanao tại Phi Luật Tân, và một “Đại Đông Dương”, được nhận
thức như một đại dương nối kết, bao gồm Biển Java, miền đông và miền nam
đảo Borneo, và miền đông Indonesia. 12 Nguồn tài liệu thời nhà Nguyên này không đề cập đến các đảo san hô ở Biển Nam Trung Hoa.
Vào năm 1349, khi Uông Đại Uyên viết quyển Dairi zhilue (Đảo Di Chí Lược),
“Tây Dương” đã sẵn được phân biệt một cách rõ ràng với “Đông Dương”.
Theo nguồn tài liệu này, điểm nơi mà Tây Dương và Đông Dương phân chia
là tại Longyamen龍牙門 Long Nha Môn (Eo Biển Hải Cảng Keppel ngày nay, miền
nam Singapore) và tại đảo Côn Đảo. Cả hai địa điểm được xem là “cổng”
sang “Tây Dương”, xuyên qua đó các tàu trên đường đến Ấn Độ Dương đã đi
ngang qua. 13 Hơn nữa, nguồn tài liệu này cũng đề cập tới
Wanli Shitang萬里石塘 Vạn Lý Thạch Đường (Paracels) như một nơi mà vài
“mạch” dưới biển từ ba vùng hội tụ, và là nơi có liên hệ với hải cảng
mậu dịch Chaozhou潮州Triều Châu tại lục địa Trung Hoa. 14
Điều gây
thú vị để so sánh các nguồn tài liệu này với các nguồn tài liệu Ả rập
đương thời, bởi các nhà mậu dịch Hồi Giáo đã có một kiến thức phong phú
về các tuyến đường hàng hải Trung Hoa và Đông Nam Á. Các nguồn tài liệu
Ả Rập ít cụ thể hơn trong việc xác định một sự phân chia “Tây Dưong –
Đông Dương”, nhưng một số tài liệu trong chúng có chấm định một sự phân
chia như thế ở một khu vực tương tự. Vào khoảng thế kỷ thứ mười, và cho
đến lúc cuối của triều đại nhà Nguyên, một nơi được gọi là “Kalah”
trong tiếng Ả Rập ở phía tây của Bán Đảo Mã Lai, nơi nào đó gần Kedah
ngay nay và quần đảo Lingkawi cùng với sườn phía đông của đảo Sumatra,
nơi mà phần lớn mậu dịch Ả Rập phát đạt, được xem như khu vực phân chia
các đại dương. Nó cũng được nghĩ rằng khu vực này tượng trưng cho giới
hạn cho sự hải hành của các thuyền buồm Trung Hoa. Tác giả Gerald R.
Tibbets đồng ý rằng nó được thừa nhận như một đường phân chia trong các
tuyến đường giao thương từ Trung Hoa đến Ấn Độ và Arabia. 15
Tuy nhiên, một số nguồn tài liệu Ả Rập xếp Ấn Dộ Dương và các biển Trung
Hoa vào các phân vùng (sub-regions) khác (giống như “bảy biển” của
Ahmad ibn Abi Ya’qub trong thế kỷ thứ chín) qua việc cứu xét các tiêu
chuẩn khác, chẳng hạn, như các ngôn ngữ được nói bởi các cư dân thuộc
các chính thể liên hệ mà họ đến thăm viếng. Tuy nhiên, điều cần phải
ghi nhận rằng một số nguồn tài liệu dùng tên gọi “Sea of Cankhay”, tên
gọi Trung Hoa cổ xưa Zhanghai張海 Trường Hải, để chỉ Biển Nam Trung Hoa
cũng như nhiều phần cả, Biển Đông Trung Hoa (East China Sea). 16
Trong các
tài liệu thời nhà Minh, các giới hạn địa dư của Biển Nam Trung Hoa không
được trình bày một cách rõ ràng; song biển này, như một phần của “Biển
Đông Trung Hoa”, tiếp tục được suy tưởng như bộ phận của một biên cương
lờ mờ giữa các thế giới Trung Hoa và phi Trung Hoa về mặt hải hành và
mậu dịch, một thế giới của các không gian hàng hải nơi mà thế giới văn
minh đối diện với thế giới man rợ. Một số trong các tài liệu đó có đề
cập đến các đảo san hô (Paracels (Hoàng Sa), Sprastlys (Trường Sa), the
Pratas Reef hay the Macclesfield Bank) bằng các tên gọi cổ xưa của
chúng, ngay dù sự sử dụng các tên gọi này vẫn còn thiếu chính xác khá
nhiều.
Không cố gắng để đưa ra một sự khảo sát tường tận, các nguồn tài liệu kể sau mang tính chất đại diện:
- Mã Hoan 馬歡,Doanh Nhai Thắng Lãm灜涯勝覽(Overall Survey of the Oceans’ Shores), 1451 17
- Phí Tín 費信, Tinh Sai Thắng Lãm 星槎勝覽(Overall Survey of the Star Raft), 1436
- Hoàng Trung, Huang Zhong 黄衷 , Hải Ngữ 海語(Language of the Sea), 1536
- Hoàng Tỉnh Tăng: Huang Shengceng 黄省曾,Tây Dương Triều Cống Điển Lục西洋朝貢典錄(Records of Western Ocean Tribute), 1520.
- Mao Nguyên Nghi, Mao Yuanyi, 茅元儀, biên tập, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ 鄭和航海圖 (Navigational Chart of Zheng He), trong quyển Vũ Bị Chí 武備志, 1621
- Trương Nhiếp: Zhang Xie張燮,Đông Tây Dương Khảo東西洋考 (Studies on the Ocean East and West), Lời Đề Tựa, 1617-18
- Vô Danh, Thuận Phong Tương Tống Xiangsong 順風相送 (Favorable Winds to Escort), thế kỷ thứ mười sáu
- Chính Đức Quỳnh Đài Chí, Zhende qiongtaizhi正德瓊臺志 (Địa phương chí đảo Hải Nam dưới thời trị vì Chính Đức), khoảng 1521
Vào
triều nhà Nguyên, sự phân chia thành một “Tây Dương: Biển Tây” và một
“Đông Dương: Biển Đông” của khu vực hàng hải bao la từ phía tây Thái
Bình Dương đến Ấn Độ Dương ngày càng được chấp nhận hơn. Vào thời sơ
Minh, sự phân chia này thì rõ ràng, và từ đó, ý tưởng về một “Biển Phía
Nam: Southern Sea” cũng xuất hiện một cách chậm chạp. Ba mươi sáu năm
sau ngày thành lập triều đại, các hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của
Đô Đốc Trịnh Hòa đã được phái đến các địa điểm dọc theo Biển Nam Trung
Hoa (South China Sea), Ấn Độ Dương và Bán Đảo Ả Rập bởi hoàng đế Vĩnh
Lạc (Yongle 永樂). Trong thời khoảng giữa năm 1405 đến 1433, bảy chuyến
du hành vào “Tây Dương” đương nhiên làm gia tăng kiến thức về các vùng
hải hành. Từ ngữ phân biệt “các đại dương: oceans” khác nhau cũng đã
sẵn hiện diện trước thời nhà Minh và trong thời sơ Minh, vài nguồn tài
liệu cho thấy rằng các khái niệm về không gian này của nhà Nguyên vẫn
được liên tục: “một “Tây Dương” được xác định là khác biệt với “Đông
Dương” được qua lại bởi các thủy thủ và thương thuyền Trung Hoa, Ả Rập
và Mã Lai. 18
Thí dụ, quyển Doanh Nhai Thắng Lãm
của Mã Hoan có đề cập tới Lambri (Nanboli 南渤里 Nam Bột Lý) tại Aceh và
Samudra-Pasai (Sumendala 蘇門答剌 Tô Môn Đáp Lạp) trên bờ phía bắc của
Sumatra như mỏm xa nhất về phía đông của “Tây Dương”. Java (Shepo) cũng
được thừa nhận nói chung như nơi mà “Tây Dương” bắt đầu. 19
Ba nơi này có thể được thừa nhận như điểm xuất phát của “Tây Dương” khi
chúng là các nơi đến sau cùng của các tuyến mậu dịch đường dài, có lợi
thế về mặt địa dư trên Eo Biển Malacca và Eo Biển Sunda. Ở đó, các
thương nhân dừng chân và tái tiếp liệu trước khi tiếp tục tiến về hướng
tây để đến Ân Độ Dương hay phía đông của Trung Hoa, Borneo, Phi Luật Tân
hay Moluccas.
Quyển Doanh Nhai Thắng Lãm, cũng như quyển Tinh Sai Thắng Lãm
của Phí Tín, có bao gồm các sự mô tả địa dư của các địa điểm trải dài
từ Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) cho đến Ấn Độ Dương. Dặc biệt,
Biển Nam Trung Hoa được thừa nhận là trải dài từ Wuhumen 五虎門Ngũ Hổ Môn,
trên bờ biển Phúc Kiến tại Eo Biển Đài Loan theo hướng đông bắc, xuống
tới xứ Chàm và Quy Nhơn (Xinzhougang: Tân Châu Cảng 新州港), trên bờ biển
trung phần Việt Nam về hướng đông. Phần tây nam của biển này trải dài
từ Côn Đảo ( Kunlunshan 崑崙山) ở hướng tây nam 20 đến Brunei (Poluo 婆羅 Bà La) ở phía nam. 21
Về phía đông, biển này chạy từ quần đảo Phi Luật Tân đến đảo Formosa
(Đài Loan). Điều quan trọng là cả hai nguồn tài liệu này đều không đề
cập đến các đảo san hô tại Biển Nam Trung Hoa.
Tuy nhiên, một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh, quyển Hải Ngữ
của Hoàng Trung (Huang Zhong), có đề cập đến các đảo này. Theo họ
Hoàng, Wanli Shitang: Vạn Lý Thạch Đường – ở đây là một chỉ danh lỏng
lẻo chỉ các quần đảo Paracel, Pratas, cũng như Macclesfield Bank – và
Wanli Changsha 萬里長沙 Vạn Lý Trường Sa – quần đảo Spratlys, một vòng đai
các đảo nhỏ bé và các nhánh san hộ vốn được lo sợ như một nơi chốn cực
kỳ nguy hiểm cho sự hải hành – tất cả được nhận thấy nơi “Biển Đông:
Southern Sea”. 22 Hơn nữa, Bản Đồ Hải Hành Của Trịnh Hòa, cái được gọi là “Bản Đồ của Mao Kun: Mao Khôn, Mao Kun tu 茅坤圖Mao Khôn đồ”,
được biên soạn từ các bản đồ hải hành còn tồn tại trong năm 1621, có
xác định một số đảo san hô tại Biển Nam Trung Hoa (South China Sea).
Các đảo này bao gồm Thạch Đường, Shitang 石塘, có nghĩa Wanli Shitang: Vạn
Lý, và cái được gọi là Wancheng Shitangyu: 萬生石塘嶼Vạn Sinh Thạch Đường
Dư, cả hai tên đều để chỉ Quần Đảo Paracels. Bản đồ cũng đánh dấu nơi
gọi là Shixing Shitang: Thạch Tinh Thạch Đường 石星石塘 (có thể là tên khác
của Wanli Shitang: Vạn Lý Thạch Đường), xác định một khu vực chạy dài
bao trùm Macclesfield Bank, các Quần Đảo Pratas và Paracels, một vòng
đai các cấu hình bằng đá và san hô khởi đầu gần hải cảng Triều Châu
(Chaozhou) (lập lại theo tác giả Uông Đại Uyên trong quyển Đảo Di Chí
Lược năm 1349. 23
Sự
phân chia giữa “Tây Dương” và ” Đông Dương” không rành mạch trên bản đồ
của Mao Khôn nhưng chỉ có ít nguồn tài liệu giữa thế kỷ thứ mười sáu là
có trình bày một cách rõ ràng nơi mà nó tọa lạc. Quyển Tây Dương Triều Cống Điển Lục
(1520) của Hoàng Tỉnh Tăng xem “Tây Dương” bắt đầu từ phía đông của
Kunlun Yang 崑崙洋 Côn Lôn Dương và Lambri và có đề cập đến Sulu như thuộc
về “Đông Dương”. 24 Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ thứ mười bảy, sự phân chia này được đánh dấu một cách rõ ràng trong quyển Đông Tây Dương Khảo.
Tác giả Trương Nhiếp đã chỉ định các chính thể từ Đông và Đông Nam Á là
tùy thuộc hoặc vào “Tây Dương” hay “Đông Dương”. Nhật Bản được ghi
nhận trong một phần riêng biệt. Trong số các chính thể được bao gồm nằm
trong phạm vi “Tây Dương” là Giao Chỉ, Chàm, Xiêm La, và ngay cả
Palembang, trong khi các chính thể thuộc vào “Đông Dương” bao gồm Luzon
(Lữ Tống), Sulu và Brunei. 25 Tác giả họ Trương cũng ghi
nhận Palembang là thuộc “Biển Đông Nam: Southeast Ocean”, và đặt Brunei
là điểm nơi mà “Tây Dương khởi đầu. 26 So sánh với các nguồn
tài liệu thời sơ và giữa nhà Minh, điều đáng ghi nhận rằng trong các bản
đồ, sự phân chia Đông và Tây đã di chuyển một chút về phía đông vào
cuối triều đại. Trong văn bản của họ Trương, Các Đảo Biển Nam Trung Hoa
vắng mặt, điều nhiều phần xác nhận rằng phần trung tâm của Biển Nam
Trung Hoa phần lớn bị né tránh bởi các thủy thủ và nằm ngoài các tuyến
mậu dịch chính. 27
Một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh là quyển Thuận Phong Tương Tống,
một cẩm nang hải hành có lẽ từ thế kỷ thứ mười sáu mà tác già vài niên
đại chính xác vẫn chưa rõ. Trong văn bản này, các sự trình bày chi tiết
các tuyến đường biển nối liền Phúc Kiến, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan,
Brunei và Phi Luật Tân, trong số các địa điểm khác, được ghi chép. Nó
cũng có các sự tham chiếu ít chi tiết hơn các đảo san hô của Biển Nam
Trung Hoa: Vạn Lý Thạch Đường và các hải phận kề cận (Thất Châu Dương,
Qizhou Yang 七州洋, và Vạn Lý Trường Sa cũng được đề cập đến một cách vắn
tắt. 28
Nguồn tài liệu cuối cùng từ thời nhà Minh là một quyển địa dư chí địa
phương về Hải Nam. Trong quyển Địa Phuơng Chí Hải Nam dưới thời trị vì
của vua Chính Đức, một khu vực hàng hải phía nam lục địa Trung Hoa trải
dài từ bắc Việt Nam (Giao Chỉ), Chàm, và Căm Bốt đến Quảng Châu và Phúc
Kiến được ghi nhận. Quyển sách cũng đề cập đến hai cấu trúc trong khu
vực hàng hải này, Vạn Lý Thạch Đường và Trường Sa (Changsha) (ở đây, gọi
là Pratas). Theo tài liệu này, lái thuyền từ đảo Hải Nam đến các bờ
biển Phúc Kiến và Chiét Giang chỉ cần bốn đến chín ngày. Quyển sách
không có sự tham chiếu trực tiếp nào đến Tây Dương và Đông Dương. 29
Sự hiểu
biết về Biển Nam Trung Hoa và các đặc tính các đảo của nó nói chung được
xem có tăng trưởng vào lúc bắt đầu nhà Thanh, nhưng nhiều nguồn tài
liệu từ thời kỳ này chỉ lập lại các tài liệu có trước. Các nguồn tài
liệu kể sau được duyệt xét nơi đây:
- Trần Luân Quýnh: Chen Lunjiong 陳倫炯,Hải Quốc Văn Kiến Lục: Haiguo wenjianlu 海國聞見錄 (Records of Things Heard and Seen in the Maritime Countries), 1730
- Vô Danh, Chỉ Nam Chính Pháp指南正法(Directions to the South),có lẽ vào đầu thế kỷ thứ mười tám.
- Tạ Thanh Cao: Xie Qinggao 謝请高,chép lại bởi Yang Bingnan 楊炳南 Dương Bính Nam, Hải Lục: Hailu海錄(Maritime Records), 1820-21
- Xu Jiyu 徐繼畬Từ Kế Dư, Yinghuan Zhilüe 灜環志略Doanh Hoàn Chí Lược (Synoptic Treatise on the Maritime Circuit), 1844-48.
- Wei Yuan 魏源Ngụy Nguyên, Hải Quốc Đồ Chí: Haiguo tuzhi 海國圖志 (Illustrated Gazetteer of the Maritimes Countries), 60 tập, 1847
- Quảng Đông Tỉnh Quỳnh Châu Phủ Chí:Guangdong sheng Qiongzhoufu zhi: 廣東省瓊州府志 (Records of Qiong Prefecture in Guangdong), 1841
Các cuộc
thảo luận về sự phân chia giữa “Tây Dương” và “Đông Dương” tiếp tục đến
triều đại nhà Thanh. Sau khi thu hồi đảo Formosa trong năm 1684, hoàng
đê Khang Hy: Kangxi 康熙 đã ra lệnh vài cuộc viễn chinh bằng đường biển
tới Các Biển Phương Nam (Southern Seas). Hơn bốn mươi năm sau đó, trong
năm thứ tám đời vua Ung Chinh: Yongzheng 雍正 (1730), quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục
đã xuất hiện. Nguồn tài liệu này đưa ra các sự mô tả các địa điểm khắp
thế giới từ Nhật Bản đến Vương Quốc Thống Nhất Anh, kể cả địa dư của
Biển Nam Trung Hoa. Tài liệu có đưa ra các sự phân biệt giữa Đông Dương
(Eastern Ocean), Đông Nam Dương (Southeastern Ocean), Nam Dương
(Southern Ocean), Tiểu Tây Dương (Small Western Ocean), Đại Tây Dương
(Great Western Ocean), khu vực Kunlun (Côn Lôn (Luân)) và vùng Nan’aoqi
南澳氣 Nam Áo Khí. Trần Luân Quýnh nêu ra rằng có vài vùng đất tại Nam
Dương phía nam đảo Đài Loan (nơi vốn được xem là thuộc Đông Nam Dương)
và bắc Indonesia. Xứ Chàm, Tân Châu Cảng, Chân Lạp và Giao Chỉ tạo
thành ngoại vi phía tây của Nam Dương. Trong phạm vi “hồ” nước khổng lồ
này, ông có xác định Thất Châu (Qizhou: 七州) và Thất Châu Đại Dương
(Qizhou Dayang: 七州大洋), cũng như Vạn Lý Trường Sa và Tây Trường Sa西長沙,
tất cả các địa danh này ở đây để chỉ quần đảo Paracels [Hoàng Sa]. Tác
giả cũng ghi nhận Thiên Lý Thạch Đường (Qianli Shitang 千里石塘)hay Thạch
Đường (cụm các hòn đảo và san hô của nhóm Trường Sa), Đông Trường Sa (
東長沙), cũng gọi là Sa Đầu (Shatou 沙頭) (Macclesfield Bank), và vùng Nam Áo
Khí (Nan’aoqi) (Quần Đảo Pratas và chung quanh). 30
Các địa danh tương tự được gồm trong quyển Chỉ Nam Chính Pháp,
một bản chép tay mà tác giả và niên kỳ không rõ nhưng có lẽ được viết
ra trong khoảng đầu thế kỷ thứ mười tám. Giống như trường hợp của quyển
Thuận Phong Tương Tống, có các sự trình bày chi tiết các hải
đạo và một số sự đề cập đến các quần đảo. Trong cả hai văn bản, Các Đảo
Paracels và hải phận chung quanh, đảo Pratas (được xác định ở đây là
Changshawei 長沙尾 Trường Sa Vĩ, một phần của vùng Nan’ao: Nam Áo), và
quần đảo Spratlys (Trường Sa) có được ghi chép. 31
Với
bước tiến của các nước Âu Châu vào hải phận Á Châu, cũng như đào sâu
kiến thức về mậu dịch ngoại quốc xuyên đại dương (và như một kết quả
trực tiếp của các chiến dịch quân sự của hoàng đế Càn Long tại Miến Điện
và đánh phá người Miao (Mèo) tại vùng Tây Nam Trung Hoa), các nhà cầm
quyền Mãn Châu đã biểu lộ sự chú ý gia tăng đến Biển Nam Trung Hoa.
Quyển Hải Lục, được viết trong thời chuyển tiếp giữa thời trị
vì của vua Gia Khánh ( Jiaqing嘉慶) và Đạo Quang (Daoguang 道光)
(1820-1821), nói rằng có hai tuyến đường mậu dịch tại Biển Nam Trung Hoa
chạy từ Quảng Đông đến Batavia thuộc Ấn Độ Hòa Lan (Dutch Indies) [tức
Indonesia ngày nay, chú của người dịch] – một “nội tuyến: inner route”
và một “ngoại tuyến: outer route”. 32 Trong tập sách này, tác
giả Tạ Thanh Cao cũng ghi chép về Vạn Lý Trường Sa (Quần Đảo Paracels)
và Thiên Lý Thạch Đường (Quần Đảo Spratlys), 33 nơi mà quần
đảo Paracels có tác dụng như một điểm tham chiếu cho tuyến đường bên
trong ven biển, tương đối an toàn nhưng dài, và nhóm đảo Spratlys như
một điểm tham chiếu trên tuyến đường bên ngoài ngắn hơn, nhưng nguy hiểm
hơn.
Vào khoảng một trăm năm sau quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, tác giả nổi tiếng Ngụy Nguyên có ghi chép các địa điểm tương tự trong tác phẩm lừng danh của ông, Hải Quốc Đồ Chí.
Một lần nữa, các vùng hàng hải được sắp xếp thành các đại dương theo
các hướng khác nhau: Tây Dương, Đại Tây Dương, Tây Nam Dương, Tiểu Tây
Dương, và Biển Đại Nam (Greater Southern Sea), trong số nhiều danh xưng
khác. Trong tác phẩm của Ngụy Nguyên, Đông Dương, bao gồm Biển Nam
Trung Hoa (South China Sea), Biển Đông Trung Hoa (Eastern China Sea), và
các Biển Hoàng Hải (Yellow Sea) và Bố Hải (Bohai Sea), được xem như một
thực thể duy nhất, khác biệt với Đại Đông Dương (Greater Eastern Ocean)
ở phía đông của quần đảo Nhật Bản và Phi Luật Tân. 34 Khi đó, điều rõ ràng rằng cả Hải Quốc Văn Kiến Lục và Hải Quốc Đồ Chí đều đã lập lại ý tưởng về một sự phân chia Đông-Tây, một ý kiến đã được đưa ra trong các nguồn tài liệu thời tiền Minh.
Trong thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng
được đánh dấu trên vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này không
hoàn toàn đông nhất, nhóm Paracels vẫn còn được xác định là Vạn Lý
Trường Sa trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm
Spratlys được gọi hoặc là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch
Đường. Tuy nhiên, điều rõ ràng khi khảo sát nhiều bản đồ cho thấy rằng
địa điểm đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng
các sự mô tả các hòn đảo và san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc
nhiên. Thí dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai
nhóm Paracels và Spratlys đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung
Hoa. Tuy nhiên, bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, Dương Hoàn Chí Lược và Hải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo song song với đất liền. 35
Trong các nguồn tài liệu địa phương thời nhà Thanh, kiến thức địa dư của
phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa khá chi tiết, nhưng các sự mô tả
các địa điểm xa hơn, chẳng hạn như Paracels và Spratlys, thì không rõ
ràng gì cả. “Biển Phương Nam [Nam Hải]: Southern Sea” được nghĩ một
cách điển hình như một biển duyên hải trong các tác phẩm này. Các khu
vực duyên hải được mô tả một cách tường tận, nhưng các sự ghi chép về
các hải phận sâu hơn thì mơ hồ. Trong thực tế, các quyển lịch sử địa
phương Quảng Đông dường như chỉ lập lại các tài liệu ghi chép thời tiền
nhà Thanh các tên gọi và vị trí của Paracels và Spratlys cùng các khoảng
cách của chúng từ đất liền. 36 Khi thảo luận về các tuyến
đường biển được qua lại bởi các thuyền buồm và các thương thuyền Âu
Châu, các tài liệu này quan tâm nhiều nhất đến việc ghi chú các địa điểm
duyên hải có liên hệ với sự hải hành ven bờ biển. Các tài liệu này
không có các sự thấu triệt đáng kể nào về các tuyến đường biển nước xanh
và các sự tham chiếu của chúng đến các hòn đảo, vốn được xem là các nơi
cực kỳ nguy hiểm cho các kẻ bạo gan lái thuyền tách xa khỏi bờ biển,
thì mơ hồ. 37
Tuy
nhiên, một sự phân tích một số nguồn tài liệu địa phương cho thấy một sự
ý niệm hóa đáng chú y về các khu vực hàng hải. Quyển Hải Nam Địa Phương Chí
năm 1841 phân chia “Nam Hải” khổng lồ thành một vòng đai biển duyên hải
nơi các chiếc thuyền tham gia vào các hoạt đông liên hải cảng, một vành
đai liền nhau của các hải phận nước cạn; một khu vực sâu hơn, được gọi
là đại dương bên trong (inner ocean); và một đại dương vòng ngoài mênh
mông, hay biển cả bao la. Sự phân chia này rõ ràng được làm ra để thông
báo cho các thủy thủ về các tuyến đường lưu thông an toàn, và để tạo dễ
dàng cho việc chuyển vận hàng hải và các hoạt động đánh cá. 38
Tổng kết, các nguồn tài liệu thời nhà Thanh tiêu biểu này đã mô tả Biển
Nam Trung Hoa và các giới hạn của nó với sự rõ ràng tương đối, thường
lập lại các tác phẩm trước đó. Tuy nhiên, chúng đã không thảo luận về
các hòn đảo và các quần đảo của nó với bất kỳ chi tiết nào. Các tài
liệu địa phương, mặt khác, đã phân chia biển thành cách vùng gần và xa
bờ biển, nhắm hướng dẫn các thủy thủ về nơi lái thuyền và nơi không nên
mạo hiểm. 39
Còn tiếp…
______
CHÚ THÍCH
Tác giả
xin cám ơn Tiến Sĩ Roderich Ptak và hai vị tham vấn vô danh về các ý
kiến sâu sắc của họ về bài viết này. Tuy nhiên, mọi quan điểm bày tỏ
thuộc phần trách nhiêm riêng của tác giả.
1. Văn
liệu về đề tài này thì phong phú, nhưng các nguồn tài tiếng Hán kể sau
phải được lưu ý: Deng Ciyu, “Nan zhongguo hai zhudaoyu de zhuquan wenti”
[Vấn Đề Chủ Quyền Các Đảo tại Biển Nam Trung Hoa], trên Mingbao Yueban
[Nguyệt San Mingbao], Tháng Năm 1974: 1-8; Zhang và Fang, Zhongguo
haijiang tongshi [Tổng Sử về Các Khu Vực Duyên Hải và Lãnh Hải Trung
Hoa] (Hangzhou: Zhongzhou guji chubanshe, 2003); Lu Yiran, biên tập,
Nanhai zhudao, dili, lishi, zhuquan [Các Đảo Biển Nam Hải – Địa Lý, Lịch
Sử và Chủ Quyền] (Harbin: Heilongjian jiaoyu chubanshe, 1992); Lu
Yiran, biên tập, Zhongguo haijiang lishi yu xianzhuang yanjiu [Nghiên
Cứu Hiện Trạng và Lịch Sử Biên Cương Trên Biển Của Trung Hoa] (Harbin:
Heilongjiang jiaoyu chubanshe, 1995); Han Zhenhua, Woguo nanhaizhudao
shiliao huibian [Các Nguồn Sử Liệu Về Các Đảo Biển Nam Hải của Tổ Quốc
Chúng Ta] (Beijing: Dongfang chubanshe, 1998); Han Zhenhua, Nanhai
zhudao shidi yanjiu [Nghiên Cứu Về Địa Lý Lịch Sử Biển Nam Hải]
(Beijing: Shehui kexue wenxian chubanshe, 1996); Cheng Keqin, biên tập,
Zhongguo nanhai zhudao [Quần Đảo Biển Nam hải, Trung Hoa] (Haikou:
Hainan guojixinwen chubanshe, 1996); Guoli Zhongyang tushuguan
Taiwanfengguan, Hainanji nanhai xueshu yantaohui lunwenji [Biên Bản Hội
Nghị Hàn Lâm Về Đảo hải nam và Biển Nam hải] (Taipei: Wenshizhe
chubanshe, 1996).
Các nguồn tài liệu bằng Anh ngữ gồm: Bộ Ngoại Giao Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc, China’s Indisputable Sovereignty Over the Xisha and Nansha
Islands (Beijing: Foreign Language Press, 1980); Ji Guoxing, The
Spratlys Disputes and Prospect for Settlement (Kuala Lumpur: Institute
of Strategic and International Studies, 1992); Yang Tzou-Chow, Storm
Over the South China Sea (New York: Center of Asian Studies, St. John’s
University, 1995); Steven Kuan-Tsuh Yu, “Who Owns the Paracels and
Spratlys? An Evaluation of the Nature and Legal Basis of the Conflicting
Territorial Claims”, trong quyển Fishing in Troubled Waters,
Proceedings of an Academic Conference on Territorial Claims in the South
China Sea, đồng biên tập bởi R. D. Hill, Norman G. Owen, và E. V.
Roberts (Hong Kong: University of Hong Kong, 1991); The-Kuang Chang,
“China’s Claims of Sovereignty Over Spratly and Paracel Islands: A
Historical and legal Perspective”, trong Tạp Chí Case Western Reserve
Journal of International Law, 23:3 (Summer 1991): 399-420.
2. Kể
từ đầu thế kỷ thứ hai mưới, các sự tuyên nhận của Trung Hoa đã được sắp
xếp một cách khác biệt bởi có chứng liệu về sự can thiệp trực tiếp hơn
của chúng. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng một vài tác giả có đề cập đến
năm 1902, chứ không phải 1909, như niên kỳ của sự tuần hải đầu tiên.
3.
Quyền chủ tể (sovereignty) được định nghĩa ở đây như “thẩm quyền tối
thượng trong phạm vi một lãnh thổ”, địa hạt tài phán (jurisdiction) là
“khu vực địa dư trên đó một bộ phận chính phủ có quyền lực và quyền hạn
để hành xử thẩm quyền”; và “quyền bá chủ: suzerainty” như “vị thế hay
thẩm quyền của một bá chủ” – một quốc gia thống trị kiểm soát các quan
hệ ngoại giao của một nước chư hầu, nhưng cho phép nó có chủ quyền trong
các vấn đề nội bộ của nó”.
4. Khai
niệm về quyền bá chủ được áp dụng tại Trung Hoa trong cả các quan hệ
mậu dịch với “các kẻ man rợ” lẫn các nhà ngoại giao tiếp xúc với họ.
Xem John K. Fairbank, “Introduction: The Old Order”, trong quyển The
Cambridge History of China, biên tập bởi John Fairbank (Cambridge:
Cambridge University Press, 1978), Tập 10, các trang 29-34.
5. Trên
bằng khoán, Malcolm Shaw phát biểu: “Từ ngữ này liên hệ đến cả các tình
trạng sự kiện [tình] và pháp lý [lý] theo đó lãnh thổ được xem thuộc
vào một thẩm quyền cá biệt này hay kia”. Malcolm N. Shaw, International
Law, ấn bản lần thứ 3 (Cambridge: Cambridge University Press, 1991),
trang 279.
6.
Nhiều tác phẩm tiếng Hán thảo luận về điểm này. Một danh mục tuyển chọn
bao gồm: Zhongguo nanhai zhudao, các trang 266-87; Guangdong sheng
diming weiyuanhui bianji, Nanhaizhudao diming ziliao huibian [Các Nguồn
Tài Liệu Về Địa Danh Của Các Đảo Tại Biển Nam Hải] (Guangzhou: Guangdong
ditu chubanshe, 1987), các trang 62-139; Han, Woguo nanhaizhudao, các
trang 366, 400-42; Han, Nanhai zhudao shidi yanjiu, trang 81; Lin
Jinzhi, “Zhongguo zuizao faxian, jingying he guangxia nanhai zhudao de
lishi” [Lịch Sử Sự Khám Phá Đầu Tiên Của Trung Hoa, Tổ Chức Hành Chính
và Sự Kiểm Soát Các Đảo Biển Nam Hải] trong sách của Lu, Nanhai zhudao,
dili, lishi, zhuquan, các trang 27-40); Lu Yiran, “Rishang Xize jici
qiangzhan dongsha qundao yu zhongri jiaoshe” [Sự Chiếm Cứ Quần Đảo
Pratas bởi Nhà Mậu Dịch Nhật Bản Yoshiji Nishizawa và Các Cuộc Thương
Nghị Trung Hoa – Nhật Bản] trong sách của Lu, Zhongguo haijiang lishi,
các trang 90-4; Tao Cheng, “The Disputes over the South China Sea
Islands”, Texas International Law Journal 10 (1975), các trang 265-277;
Guo Zhengan, “Nanhaizhudao de kaifazhe” [Các nhà Phát Triển Các Đảo Biển
Nam Hải], trong Guoli zhong-yang tushuguan Taiwan fenguan, Hainan ji
nanhai, các trang 471-510.
7.
Zhou, Qufei, Lingwai daida [Lĩnh Ngoại Đại Đáp] (Baibu congshu jicheng,
biên tập, Taipei: Yiwen yinshuguan, 1966), 1:13b-14a. Tác giả Roderich
Ptak vạch ra rằng hẳn là nhầm lẫn khu vực khổng lồ này với cái được gọi
là Biển Đông Nam (Dong Nan Hải 東南海Đông Nam Hải), xem “Quanzhou: at the
Northern Edge of a Southeast Asian “Mediterranean”, trong sách của Ptak,
China, the Portuguese, and the Nanyang: Oceans and Routes, Regions and
Trade (c. 1000 – 1600) (Aldershot: Ashgate Variorum, 2004), các trang
408-9.
8. Zhao Rugua, Zufan zhi: Chư Phiên Chí (Congshu jicheng, biên tập, Shanghai: Shangwu Yinshuguan chubian, 1937), 2:1.
9. Zhao, Zufan zhi, 2:7.
10. Ptak, “Quanzhou”, trang 415.
11.
Chen Dazhen, Dade nanhaizhi [Đại Đức Nam Hải Chí] (Song-yuan fangzhi
congkan, biên tập, Beijing: Zhonghua shuju, 1990), Vol. 8, 7:18b-20b).
12.
Ptak, “Sudostasiens Meere nach chinesischen Quellen (Song und Yuan)”, và
“Quanzhou”, cả hai trong sách của Ptak, China, the Portuguese, and the
Nanyang, các trang 17-21, 413-14).
13. Wang Dayuan, Daoyi zhilue [Đảo Di Chí Lược] (Beijing: Zhonghue shuju, 1981), các trang 214, 218.
14.
Cùng nơi dẫn trên, trang 318. Các hòn đảo san hô này, phần lớn xác xuất
là Quần Đảo Paracels, được đặt nơi Đoạn 81, một con số có thể ám chỉ
một số ý nghĩa tế nhị hay bí truyền. Con số 81 được liên kết trong
truyền thống Trung Hoa với số vẩy đực của con rồng (biển?) — điều này
có thể cho thấy rằng đây là những hòn đảo nguy hiểm cho các người đi
biển. Tác giả Ptak nêu câu hỏi là liệu hình ảnh từ con số này có thể để
chỉ một con rồng khổng lồ hay không. Muốn có một sự phân tích về các
hàm ý khả hữu của sự sắp xếp con số của nguồn tài liệu thời nhà Nguyên
này, xem Ptak, “Quanzhou”, trang 418. Cũng xem Roderich Ptak, “Glosses
on Wang Dayuan’s Daori zhilue (1349/50)”, trong quyển Récits de voyage
des Asiatiques, Genres, mentalities de l’espace, biên tập bởi Claudine
Salmon (Paris: École Franҫaise d’Extrême-Orient, 1996), các trang
127-141).
15.
Theo các nhà biên niên sử Hồi Giáo thế kỷ thứ mười Abu Zaid Hassan al
Sirafi và Abu Dulaf, và theo Abu al-Fida Isma’il ibn Ali (1273-1331) địa
điểm Kalah (the Qadah và Keda của Ibn al-Majid và Sulaiman al-Mahri,
một cách lần lượt) được xem là điểm giữa của con đường Ả Rập nằm giữa
Trung Hoa và Ceylon (Tích lan) sau hết đã dẫn tới Oman. G. R. Tibbetts,
“The Malay Peninsula as Known to the Arab geographers”, Malayan Journal
of Tropical Geography 9 (1956): 21-60, các trang 24, 27, 31. Chính
thành phố (hay hòn đảo) phía tây bán đảo Mã Lai này là nơi tuyến đường
đến Ấn Độ đã thực sự khởi hành đối với các thủy thủ Ả Rập, đặc biệt sau
khi các hoạt động mậu dích trực tiếp của họ di chuyển về phía tây từ
miền nam Trung Hoa sang bờ phía đông của bán đảo Mã Lai. Sự kiện này đã
xảy ra trong thế kỷ thứ mười, sau khi quân nổi dậy Huang Chao 黃巢 Hoàng
Sào đã công khai tàn sát đến 200,000 người Ả Rập, các người theo đạo
Thiên Chúa và đạo Zoroastrians trong khi chiếm giữ Quảng Châu vào năm
879. Paul Lunde, “The Seas of Sindbad”, Saudi Aramco World 65, 4
(July/August 2005): 20-29, http://www.saudiaramcoworld.com/issue/200504/the.seas.of.sindbad.htm,
tiếp cận June 2008. Hồi Giáo tại Đông Nam Á và các hàm ý của nó trên
mậu dịch liên vùng, tuy thế, phần lớn nằm ngoài chủ đề của bài khảo cứu
này, và các nhà đia dư học Ả Rập được đề cập đến ở đây cho đầy đủ. Muốn
có một sự giới thiệu tổng quát, xem H. J. De Graff, “South-East Asian
Islam to the Eighteenth Century”, trong quyển The Cambridge History of
Islam, biên tập bởi P. M. Holt, Ann K. S. Lambton và Bernard Lewis
(Cambridge: Cambridge University Press, 1970), Vol. 2a, các trang
123-54.
16.
Muốn có bản phiên dịch Ya’qub, xem Gabriel Ferrand, Relations de voyages
et textes géographiques arabes, persans et turks, relatifs à
l’Extrême-Orient du VIIIe au XVIIIe siècles (Frankfurt am Main: J. W.
Goethe Universitat, Institut fur Geschichte der Arabisch-Islamischen
Wissenschaften, 1986), trang 50.
17.
Quyển Overall Survey of the Oceans’ Shores (Doanh Nhai Thắng Lãm) [của
Mã Hoan] từ lâu được xem có niên kỳ là 1433. Tuy nhiên, giờ đây điều
được chấp nhận bởi nhiều học giả rằng hình thức xác định của tác phẩm
này là từ năm 1451, bảy năm sau khi bản thảo đầu tiên được hoàn tất.
Xem Wan Ming, “Ming chaoben Yingya shenglan yu Zheng He baochuan chidu”
[Quyển “Doanh Nhai Thắng Lãm” thời nhà Minh và Sự Đo Lường Các Bảo
Thuyền Của Trịnh Hòa] trong tờ Zhongguo shehui kexueyuan bao [Tập san
Hàn Lâm Viện Trung Hoa Về Khoa Học Xã Hội], 7 Tháng Bảy 2005, http://www.guoxue.com/ws/html/zuixinfabu/20050708/238.html,
tiếp cận Tháng Bảy 2008. Cũng xem Paul Pelliot, “Les grands voyages
maritimes Chinois au début du XVe siècle”, ấn bản tiếng Hán trong Zheng
He xia xiyangkeo / Jiao Guang Yindu liang dao kao [Về Sự Hải Hành Của
Trịnh Hòa đến Biển Tây Dương/ Ngiên Cứu về Các Đường Biển Việt Nam-Trung
Hoa-Ân Độ], phiên dịch bởi Bo Xihe và Feng Chengjun (Beijing: Zhonghua
shuju, 2003), các trang 15-32.
18.
Theo nhà Minh, các nhà địa dư học Ả Rập thừa nhận toàn thể phía đông Bán
Đảo Mã Lai, kể cả Vịnh Thái Lan và Biển Nam Trung Hoa (South China
Sea), là thuộc vào khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa, hay “Đại Trung Hoa:
Greater China” (al Sin wa Ma’l Sin; một từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng
Phạn (Sanskrit Cina Mahacina, và từ tiếng Ba Tư (Persian) Chin Machin).
Một sự tham khảo từ bản văn năm 1511 bởi Sulaimanb. Ahmadal-Mahri,
Al-‘Umdat al-Mabriyah fi Dabt al-‘Ulum al-Najmiyah (MSS file 2559), có
xác định một vùng bao la như thế, được tìm thấy trong sách của Tibbets,
“The Malay Peninsula”, trang 48. Xem chú thích số 75 trong bài viết
này.
19. Có
một tài liệu trong quyển Yingya Shenglan (Doanh Nhai Thắng Lãm) về
Nanboli (23a) chỉ một điểm phân chia tại Maoshan帽山, ngày nay là Pulau
Weh, Indonesia (khoảng 5’54 bắc vĩ tuyến, 95’13 đông kinh tuyến), về
Samudra-Pasai (19b), về Shepo (3a) và bài thơ kỷ niệm (2a). Cũng xem,
Zhang Sheng, Gaizheng Yingya Shenglan [Cải Chính Doanh Nhai Thắng Lãm]
(Taipei: Guangwen shuju, 1969), trang 191, và Feng Chengjun, Yingya
Shenglan jiazhu, Ma Huan zhuan [Doanh Nhai Thắng Lãm, của Mã Hoan]
(Shanghai: Shangwu yinshuguan, 1937), trang 74.
20.
Xingcha Shenglan: Tinh Sai Thắng Lãm, 1:5a; Yingya Shenglan, 4a. Tuy
nhiên, Kunlunshan có thể được xác định trong các nguồn tài liệu khác là
Kalimantan. Muốn có một sự phân tích các tên gọi các đảo trong vùng này
và các biến thể, xem Chen Jiarong, Gudai nanhai diming huishi [Các
nguồn tài liệu về Đia Danh Xưa của Biển Phương Nam] (Beijing: Zhonghue
shuju, 1986).
21. Về
sự phân chia “Đông Dương: Eastern Ocean” và “Tây Dương: Western Ocean”
tại Brunei (một vị trí khác biệt với các nguồn tài liệu khác), xem
Mingshi [Minh Sử] (Beijing: Zhonghua shuju, 1974), 3238378.
22.
Huang Zhong Hoàng Trung, Haiyu [Hải ngữ; ngôn ngữ của biển] (Zhongguo
nanhai zhuqundaowenxian huibian, biên tập, Taipei: Taiwan xuesheng
shuju, 1975), 3:1b-2a.
23. Xem
bản đồ nhan đề “Xinanhai yi tu” và bản đồ Mao Khôn trong sách của Mao
Yuanji, Webei Zhi [Khảo Luận về Sự Chuẩn Bị Quân Sự] (Zhongguo Bingshu
jicheng, biên tập, Beijing: Jiefang chubanshe, 1989), 222:11b, 240:
10b-11a. Sự xác định tên gọi các bãi san hô ngầm và sự biến đổi chúng
đã trải qua có thể được tìm thấy trong sách của Hàn, Nanhai zhudao shidi
yanjiu, các trang 1-51.
24.
Huang Shengceng: Hoàng Tỉnh Tăng, Xiyang chaogong dianlu [Tây Dương
Triều Cống điển lục] (Congshu jicheng, biên tập, Beijing: Zhonghua
shuju, 1991), các trang 3, 13, 21.
25.
Zhang Xie (Trương Nhiếp), Dongxi yangkao [Đông Tây Dương Khảo: nghiên
cứu về biển Đông và Tây] (Wang Qizong, biên tập, 1618).
26. Cùng nơi dẫn trên, 5:16a, 3:18b.
27. Bản
đồ Dongxi nanhai yizhuguo zongtu [Bản Đồ Tổng Quát Tất Cả Các Nước Man
Rợ Tại Các Biển Đông, Tây và Nam] và bản đồ Dongnan haiyang zhuyiguo tu
[Bản Đồ Tổng Quát Tất Cả Các Nước Man Rợ Của Biển Đông Nam] – cả hai từ
quyển Dongxi yangkao, Đông Tây Dương Khảo – cho thấy một khoảng trống
bao la nằm giữa biển Nam Hải, nơi mà các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa
phải tọa lạc ở đó.
28.
Xiang Da, Liangzhong haidao zhenjing: Xunfeng xiangsong, Zhinan zhengfa
[Hai Quyển Kinh Điển Về Hải Hành Bằng Địa Bàn: Các Luồng Gió Thuận Lợi
để Hộ Tống và Các Chiều Hương của Phương Nam] (Beijing: Zhonghua shuju,
1961), các trang 27-8.
29.
Tang Zhou, Zhengde qiongtai zhi [Từ Điển Địa Dư Thời Trị Vì Zhengde]
(Tianyige cang Mingdai fangzhi xuankan biên tập, Shanghai: Shanghai guji
shudian, 1964), 21:8b-9a.
30.
Chen Lunjiong: Trần Luân Quýnh, Haiguo wenjianlu [Hải Quốc Văn Kiến Lục]
(Zhongguo nanhai zhuqundao wenxian huibian, biên tập), 1:13a-18a,
19a-27b, 38a-4ob. Cũng xem Han, Nanhai zhudao shidi yanjiu, các trang
1-50 và bản đồ Sihai zongtu 四海總圖 Tứ Hải Tổng Đồ, được in lại trong sách
đồng biên tập bởi Go Bon Juan và Joaquin Sy, The Philippines in Ancient
Chinese Maps (Makati City: Kaisa Para Sa Kaunlaran Inc., 2000), trang
65.
31. Xiang, Liangzhong haidao zhenjing, trang 117. Về nhóm đảo Pratas, xem trang 155.
32. Xie Qinggao, Hailu [Các Tài Liệu Hàng Hải] (Zhongguo nanhai zhuqundao wenxian huibian, biên tập).
33. Xie, Hailu, 35a.
34. Xem
bản đồ thế giới của ông và bản đồ Dongnanyang geguo yange tu [Bản Đồ Tu
Sửa Các Nước ở Biển Đông Nam] trong sách của Wei Yuan, Haiguo Tuzhi [Từ
Điển Địa Dư Có Minh Họa của 60 Nước Hàng Hải, 60 tập (Taipei: Chengwen
chubanshe, 1967).
35. Xem
bản đồ Nanyang gedao tu [Bản Đồ Tất Cả Các Đảo Trong Biển Phía nam]
trong sách của Xu Jiyu, Yinghuan Zhilue [Doanh Hoàn Chí Lược, Các Ghi
Chép Lặt Vặt về Hải Hành] được in lại trong Quanguo gonggong tushuguan
guji wenxian bianweihui, Yinghuan zhilue. Hanghai suoji [Doanh Hoàn Chí
Lược, Các Ghi Chép Lặt Vặt về Hải Hành] (Beijing: Zhonghua quanguo
tushuguan wenxian suowei fuzhi zhongxin, 2000), 2:32. Cũng xem, bản đồ
Dongnanyang geguo yange lu trong sách của Go và Sy, The Philippines in
Ancient Chinese Maps, trang 56.
36.
Cũng xem 1841 Hainan Local Gazetteer (Qiongzhou fuzhi 瓊州府志Quỳnh Châu Phủ
Chí) trong sách của Ming Yi và Zhang Yuesong, Guangdong sheng qiongzhou
fuzhi (I), 1841 (1890) [Từ Điển Địa Dư Hải Nam, tỉnh Quảng Đông]
(Zhongguo fangzhi congshu, biên tập, Taipei: Chengwen chubanshe, 1967),
3:1a.
37. Các
sự tham chiếu đến Quần Đảo Paracels vẫn còn mơ hồ trong lịch sử địa
phương Quảng Đông mãi cho đến thời vua Đồng Trị (Tongzhi, 1862-1874).
Xem Mao Hongbin, Guangdong sheng Guangdong tushuo [Các sự Trình Bày Có
Minh Họa Tỉnh Quảng Đông] (Zhongguo fang zhi congshu, biên tập, Taipei:
Chengwen chubanshe, 1967), 17: 3b.
38. Guangdong sheng qiongzhou fuzhi, 17:5b-6a.
39. Sự
phân loại này cũng liên quan đến sự kiểm soát và đánh thuế trên các hoạt
động thuyền buồm bởi các nhà chức trách Quảng Đông và Phúc Kiến. Về
việc này, xem Jennifer Wayne Cushman, Fields From The Sea: Chinese Junk
Trade with Siam During The Late Eighteenth and Early Nineteenth
Centuries (Ithaca: Cornell University, Southeast Asia Program, 1993),
các trang 45-7.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét