Boxitvn
Tô Văn Trường
Việt
Nam chúng ta tuy có đông dân, nhưng kinh tế, và nhiều mặt còn chưa phù
hợp với vai trò mà chúng ta nên có trong một thế giới sôi động ngày nay.
Người làm chính trị có thể coi như lái thuyền giữa biển khơi, sự tỉnh
táo, linh hoạt, là không thể thiếu.
Sự kiện giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou (HS) 981
của Trung Quốc ngang nhiên đặt vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
của Việt Nam hơn tháng này kèm theo các hành động ngang ngược tấn công
bằng vòi rồng phun nước, đâm thủng các thuyền chấp pháp và ngư dân của
ta gây nên làn sóng phẫn nộ phản đối của nhân dân Việt Nam và cộng đồng
quốc tế. Có nhiều ý kiến khác nhau về kiện hay không kiện Trung Quốc ra
Tòa án quốc tế và thời điểm kiện cần chờ ý kiến của Bộ Chính trị?
Kiện Trung Quốc, được là ai cũng biết Việt Nam dám
phản đối. Mất là mất cơ hội xác định rõ hướng đi với dân Việt và nước
ngoài Việt Nam sẽ làm gì nếu Trung Quốc đưa tiếp giàn khoan vào những
nơi khác. Người ta chỉ thấy Việt Nam không biết mình sẽ làm gì, thậm chí
người ta còn thấy sự mất đoàn kết trong lãnh đạo.
Là con dân nước Việt, ai cũng đau đáu mối họa cho đất
nước. Vấn đề kiện hay không kiện là sự quan tâm lớn của cả trong và
ngoài nước. Phát biểu về những cái này, nếu không hợp với xu thế chung,
sẽ dễ bị “ném đá” vì lòng yêu nước là sức mạnh vô địch, nhưng nếu không
hướng đúng, không sử dụng đúng thì chủ nghĩa dân tộc sẽ thành con dao
hai lưỡi giống như vụ Bình Dương – Hà Tĩnh vừa qua.
Không có một Nhà nước nào lại từ bỏ chủ quyền của
mình một cách dễ dàng, chịu lệ thuộc vào nước khác cả. Nhà nước Việt Nam
cũng đã chuẩn bị cho các giải pháp từ nhiều năm nay cho dù còn có nhiều
lúc chúng ta chủ quan, “nước chưa đến chân chưa nhảy” hay làm chưa đạt
được chất lượng mong muốn.
Điều này xảy ra trong cả quân đội khi không tận dụng
được thời gian để trở thành chính quy hiện đại, xảy ra trong cả nền kinh
tế của chúng ta, khi không đa dạng hóa bạn hàng, không cổ phần mạnh các
doanh nghiệp chuyển sang cơ chế thị trường.
Sử dụng giải pháp pháp lý
Sử dụng giải pháp pháp lý là một ứng xử văn minh mà
các quốc gia phương Tây nơi có nền luật pháp vững chắc lâu đời thường
cậy đến. Với châu Á, từ chỗ coi các Tòa án quốc tế là sản phẩm của
phương Tây, sau nhiều cải tổ của chính Tòa, bổ sung thêm các thẩm phán
từ các quốc gia nhỏ khác, nên các nước châu Á cũng có xu hướng sử dụng
Tòa trong một số trường hợp như Thái Lan và Campuchia qua vụ kiện đền
Preah Vihear. Mailaysia và Indonesia vụ đảo Sipadan, Lipadan. Malaysia
và Singapore vụ đảo đá trắng, v.v.
Các nước đưa nhau ra Tòa với điều kiện là Tòa phải có
thẩm quyền trên cơ sở các quốc gia cùng chấp nhận. Tòa án Luật biển có
tiến bộ trong Phụ lục VII đưa thêm một cơ chế Quốc gia có thể đơn phương
đưa vụ việc ra Tòa trong những vấn đề liên quan đến giải thích và áp
dụng UNCLOS. Các vụ việc trên thế giới khá đa dạng, liên quan đến chủ
quyền lãnh thổ lại càng phức tạp. Hầu hết những vụ như vậy lại đòi hỏi
thiện chí thực hiện các phán quyết của Tòa.
Thông thường phán quyết của Tòa chỉ tạo cơ sở để giải
quyết vấn đề chứ không thể giải quyết hết được mà cần đến giải pháp
tổng hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự. Điều bất thường là các
cường quốc đều có lịch sử bất hợp tác, không tôn trọng phán quyết của
Tòa như Mỹ trong Mỹ/Nicaragua, Pháp trong các cuộc thử vũ khí hạt nhân…
và đều rút khỏi tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa. Điều đó, giải
thích Trung Quốc, nước vẫn coi mình bị các cường quốc phương tây bắt
nạt, bị đối xử bất bình đẳng, sẽ khó chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Thủ tục và nội dung
Các vụ kiện ra Tòa sẽ phải giải quyết vấn đề thủ tục
và nội dung. Thường Tòa sẽ tổ chức hai phiên riêng biệt. Phiên thứ nhất
về thủ tục, các bên sẽ phải đưa ra lý lẽ chứng minh, Tòa có thẩm quyền
còn việc quyết định có hay không là do Tòa. Phiên thứ hai về nội dung.
Toà sẽ chỉ có thẩm quyền xem xét đúng câu hỏi mà các bên yêu cầu với
điều kiện phải rõ ràng, không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba và phán
quyết của Tòa chỉ có hiệu lực với các bên chấp nhận thẩm quyền, không
có đối với bên thứ ba.
Tuy nhiên, phán quyết của Tòa cũng có thể tạo ra một
“opinio juris” tạo xu thế trong các phán xử các vụ tương tự sau này và
dễ định hướng cho công luận. Trong một số trường hợp, Tòa không thể
quyết định có thẩm quyền hay không, nếu không xem xét nội dung. Tòa sẽ
phải kết hợp cả hai phiên để xem xét. Đây có thể là trường hợp của Biển
Đông.
Điều kiện
Rất tiếc là nhiều người không hiểu để kiện thì Việt
Nam phải chứng tỏ rằng mình đã làm hết cách trong việc giải quyết song
phương. Đấy là yêu cầu của Luật Biển.
Khi xem xét vấn đề thủ tục tức xác định thẩm quyền.
Điều kiện đầu tiên để sử dụng công cụ pháp lý là phải sử dụng hết các
hình thức hoà bình khác như đàm phán, trung gian hoà giải, uỷ ban điều
tra… nếu các biện pháp này bế tắc thì mới dùng đến Tòa. Vì vậy, có những
vụ Tòa đã trả lại hồ sơ hoặc khuyến nghị các bên áp dụng biện pháp
trung gian hòa giải.
Điều kiện thứ hai là các bên phải đồng ý đưa ra Tòa
thì Tòa mới có thẩm quyền và chỉ xét đúng trong phạm vi câu hỏi các bên
thống nhất đưa ra.
Một khi ra Tòa là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp
nhưng đằng sau của các bên đều muốn Tòa chứng minh mình thắng. Rất ít
nước nghĩ đến mình thua. Nhưng điều kiện của Tòa thì rất khắc nghiệt, dù
được hay không các bên đều phải chấp nhận không bác bỏ. Đây là điều cả
Trung Quốc và Việt Nam đều phải cân nhắc vì lòng tự hào dân tộc cao và
chưa có truyền thống văn hóa pháp lý như phương Tây. Vì vậy, việc cân
nhắc thời điểm kiện, câu hỏi kiện, chọn tòa kiện, hệ quả kiện, so sánh
tương quan, thực thi phán quyết… là gánh nặng đối với những người chịu
trọng trách với đất nước. Trong thời gian vừa qua, hình như dư luận chỉ
muốn nói đến kiện và tin tưởng đương nhiên ta thắng, địch thua mà chưa
đề cập đến tất cả các khía cạnh của các câu hỏi trên, tạo một áp lực lớn
cho lãnh đạo.
Phải kiện và 5 khả năng lựa chọn pháp lý
Rõ ràng đến nay, các các biện pháp khác không mang
lại kết quả, chúng ta phải dùng biện pháp pháp lý tức là kiện Trung Quốc
ra Tòa án quốc tế. Việc chuẩn bị ra đòn, phải thực sự bài bản, kín kẽ,
thuyết phục.
Đi vào cụ thể, chúng ta có 5 khả năng lựa chọn pháp lý:
-
Kiện để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981
-
Kiện Trường Sa tham gia với Philippines
-
Kiện chủ quyền Hoàng Sa
-
Kiện chủ quyền Trường Sa
5. Kiện chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa
Để chọn tòa ta có Tòa án CLQT La Hay, Tòa án trọng
tài thường trực quốc tế, Tòa án luật biển, Tòa trọng tài, Một số luật sư
còn nói đến Tòa trọng tài thương mại trong nước đòi bồi thường thiệt
hại. Nhưng Tòa này chỉ có thẩm quyền với các vụ việc xảy ra trên lãnh
thổ quốc gia.
Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh thổ quốc
gia, đó là một vùng biển có quy chế đặc thù (lưỡng tính) trong đó quốc
gia ven biển có các quyền chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên, các quyền
tài phán về thiết lập các đảo nhân tạo, công trình trên biển, về bảo vệ
môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển, trong khi các quốc gia
khác có các quyền tự do biển cả về đi lại, hàng không, đặt dây cáp và
ống dẫn ngầm. Vì vậy, một số báo chí nói đó là vùng biển của Việt Nam
hay Trung Quốc hàm ý “ownship” chưa thật chính xác. Cột nước không thuộc
chúng ta mà là phần biển cả trước kia thuộc toàn bộ cộng đồng quốc tế.
Ta chỉ có một số quyền, quan trọng nhất là quyền chủ quyền trong đó để
đổi lại ta cũng phải tôn trọng các quyền tự do khác của các nước. Để đơn
giản ta chỉ còn có Tòa La Hay và Tòa án luật biển mà thẩm quyền đã được
trình bày ở trên.
Kiện riêng vụ HS 981 do Trung Quốc đơn phương triển
khai giàn khoan trong vùng tranh chấp, làm thay đổi hiện trạng pháp lý,
đe dọa hoà bình và an ninh, đề nghị trong lúc toà xem xét toà có thể yêu
cầu áp dụng các biện pháp phòng ngừa yêu cầu rút giàn khoan.
Không tính đến Hoàng Sa thuộc ai và có quy chế đảo
như thế nào (có 12 hải lý hay 200 hải lý) thì địa điểm đặt giàn khoan
đều nằm trong vùng overlapping giữa bờ biển Việt Nam (130 hải lý) và đảo
Hải Nam (180 hải lý). Cả Trung Quốc và Việt Nam vì những lý do riêng
đều tuyên bố đây không phải là vùng tranh chấp. Nếu thực hiện một đường
trung tuyến giữa bờ biển Việt Nam và Hải Nam thì điểm giàn khoan nằm bên
này trung tuyến phía Việt Nam. Hành động đơn phương mang giàn khoan
sang quá đường trung tuyến vì vậy được coi là khiêu khích. Các ủng hộ
của thế giới cũng vì cái lớn là hòa bình ổn định, ủng hộ sự kiềm chế của
Việt Nam nhưng không có ủng hộ nào về chủ quyền thuộc ai cả. Đó là điều
các báo chí khai thác một phía, còn lãnh đạo phải hiểu rõ mới ra quyết
sách đúng được.
Kiện HS 981 ít nhất Việt Nam phải hội tụ 3 điều kiện
Thứ nhất chứng minh Việt nam đã bị tổn hại những gì?
Giàn khoan di động, tàu thuyền kể cả quân sự đều được hưởng quyền tự do
hàng hải. Chỉ khi bắt đầu khai thác thực sự hay tàu cá bị đâm như hôm
4/6 mới có đủ bằng chứng tổn hại vật chất. Khác với Philippines, họ bị
mất Scarborough thực sự nên là cớ để kiện Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng
đưa ra Tòa yêu cầu Tòa tuyên bố biện pháp ngăn ngừa trước khi xét đơn
nghĩa là rút giàn khoan giữ nguyên trạng. Điều kiện là bên yêu cầu phải
chứng minh được tính cấp thiết của biện pháp phòng ngừa. Trung Quốc rất
giảo hoạt chỉ giới hạn ở đâm va chưa có đổ máu chiến sự. Cuộc đấu tranh
của Việt Nam ở đây là nhằm mục đích bẻ gãy ý chí của Trung Quốc không
cho kéo giàn khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Tư Chính hay 9 lô miền Trung. Nhưng ra Tòa, không thể nói ý định chính
trị vì đây là vụ kiện pháp lý mà phải chứng minh có tổn hại vật chất.
Thứ hai là thời gian xem xét của Toà nhanh cũng một
vài tháng. Vụ Philippines kiện Trung Quốc, tháng 2 năm 2013 đưa đơn ra
Tòa đến 30/3/2014 nộp bản memoire, Tòa yêu cầu Trung Quốc nộp bản phản
bị vong lục trình bày quan điểm của mình trước ngày 15/12 nghĩa là mở
cho Trung Quốc tham gia nhưng Trung Quốc không tham gia. Có nghĩa là thủ
tục một vụ kiện từ 18-22 tháng, Tòa mới bắt đầu xét phiên có thẩm quyền
hay không.
Giàn khoan có thời hạn hoạt động theo công bố
15/8/2014 lúc đó tàu và giàn khoan đã rút, Toà có thể nói đối tượng kiện
không còn nên hủy vụ kiện (giống như trong vụ thử vũ khí hạt nhân 1974
giữa Pháp, Newzeland, Úc). Khi ta làm xong hồ sơ thì cũng là thời điểm
họ rút. Khi đó Trung Quốc đương nhiên cho rằng không còn đối tượng xem
xét nên bác đơn. Nếu kiện Việt Nam phải kiện ngay từ những ngày đầu,
song lúc đó lại vướng phải điều kiện thứ 3 chưa hoàn thành.
Thứ ba là ta phải chứng minh đã sử dụng hết các biện
pháp đàm phán hoà bình. Hiện Trung Quốc rất xảo trá, họ không dồn đến
cùng vẫn nói là sẵn sàng đàm phán nhưng lại không chịu nhận đàm phán với
ta. Mức giao thiệp hai bên mới ở mức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, còn chưa
đến mức Thủ tướng hay Tổng bí thư.
Việt Nam và Trung Quốc lại còn Thỏa thuận nguyên tắc
về các vấn đề trên biển mới ký 2012 trong đó thỏa thuận sẽ đàm phán song
phương để giải quyết các bất đồng đối với các vấn đề song phương, đàm
phán đa phương đối với các vấn đề đa phương. Ngoài ra, cũng phải tính
đến khả năng Trung Quốc đưa lý luận vu cáo ta sử dụng lực lượng quân sự
vì cảnh sát biển hiện thuộc Bộ Quốc phòng, nếu nó được tách ra là một
lực lượng dân sự như những nhà phác thảo Pháp lệnh Cảnh sát biển 1998
ban đầu dự tính thì tốt hơn. Toà cũng có thể khuyến cáo quay về thủ tục
hoà giải bắt buộc nghĩa là hai bên đàm phán quay lại từ đầu.
Đòn tấn công của Trung Quốc
Điều cần lưu ý là tại sao phải sửa soạn cẩn thận,
tức là phải chấp nhận những gì đã thật sự xảy ra và có phương pháp đối
phó. Về kiện chủ quyền, Việt Nam có nhiều điều phải lo, bởi vì Trung
Quốc có nhiều nguồn tài liệu chứng tỏ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
nhường Hoàng Sa cho Trung Quốc.
Những gì Trung Quốc nói hôm nay, họ đã đăng trong tài
liệu của họ năm 1980, trên Beijing Review (lúc đó là tờ báo chính thức
duy nhất của Trung Quốc bằng tiếng nước ngoài) và được lặp lại ở nhiều
nơi khác, có thể coi ở đây:
Tiếng Tàu gọi Hoàng Sa là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa là Nansha (Nam Sa).
Những điểm chính trong tài liệu trên:
- Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng in cả trên báo Nhân Dân (Bản đăng này đã có trên internet).
- Báo Nhân dân VN đăng luật về hải phận của Trung Quốc.
- Các phát biểu của ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng
Ngoại giao VN và một cán bộ khác về Hoàng Sa/Trường Sa là của Trung
Quốc trong cuộc họp ở Hà Nội.
- Bản đồ World Map của Việt Nam (1960) do cục Bản đồ
(thuộc Bộ Quốc phòng VN) xuất bản ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Tàu
và đóng ngoặc là của Trung Quốc.
- Bản đồ World Atlas năm 1972 của Văn phòng Thủ tướng ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Trung (Có in lại trong tạp chí này).
- Sách giáo khoa Địa lý lớp 9 năm 1974 do Bộ Giáo dục
xuất bản, ghi Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc (đã được Trung Quốc
mới đây chụp và đưa lên internet).
Và họ lý luận là cho đến 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chấp nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc. Với những tài liệu
như thế thì khó lòng bác bỏ được họ về lập trường của VNDCCH. Ngoài ra
có thể có những tài liệu quan trọng khác mà Trung Quốc chưa đưa ra.
Để phản bác thì phải chấp nhận:
- Nước có hai quốc gia trước năm 1975: VNDCCH và VNCH.
- VNCHXHCNVN là nước kế thừa, không cần phải thừa kế
hiệp định/lời hứa nhường lãnh thổ. Bài viết của TS Tạ Văn Tài và TS Vũ
Quang Việt “Công ước Kế tục quốc gia đối với Hiệp ước 1978” là theo
hướng này. Nhưng họ chỉ là chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra vấn đề chứ
còn lập luận đứng vững hay không phải cần chuyên gia thật sự về luật này
và các luật quốc tế khác.
Kiện HS 981 chỉ là tình huống – lâu dài phải kiện đường lưỡi bò
Kiện HS 981, Việt Nam có thể đạt được thắng lợi để
tuyên truyền mục đích chính nghĩa về Việt Nam nên Trung Quốc sợ không
dám ra toà, động viên được nhân dân chung sức một lòng bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ quốc gia. Nhưng kiện chỉ để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981
thì là mục tiêu quá hẹp. Việt Nam cũng phải có biện pháp phương án lường
trước các đòn thù xấu chơi của họ nhất là trong lĩnh vực kinh tế .
Việt Nam cũng phải chuẩn bị cả những tình huống nảy
sinh tiếp theo, những cái ta không mong muốn như Toà sẽ phê phán cả Việt
Nam và Trung Quốc, xét không chỉ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
mà cả các ứng xử tiếp theo như báo Nhân Dân, Bản đồ của Cục bản đồ, sách
giáo khoa trong quá khứ, v.v. mà ta đã thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc. Đó là một suy nghĩ văn minh nhưng với công chúng thì chưa hẳn đã
thông.
Bây giờ Liên Hiệp Quốc đứng ra giúp đàm phán thì Việt
Nam phải nhanh chóng hoan nghênh. Nhưng Liên Hiệp Quốc không có trách
nhiệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà chỉ khuyến cáo hai bên
đàm phán. Điều đó có nghĩa là còn có những biện pháp hòa bình khác mà
các bên chưa tận dụng hết. Và ngay từ giai đoạn thủ tục, nếu ta không
hội đủ ba điều kiện thì việc kiện HS 981 chưa chắc đã là một điều hay
khi Tòa tuyên không có thẩm quyền.
HS 981 là một hiện tượng, còn đường lưỡi bò 9 đoạn
mới là lâu dài. Chẳng lẽ hôm nay họ kéo đến đây ta kiện, ngày mai họ kéo
đến kia ta lại kiện, sẽ dễ bị nhàm. Kiện là một giải pháp pháp lý cần
thiết và đối tượng kiện phải là đường lưỡi bò. Chúng tôi cho rằng phải
kiện, còn khi nào nộp đơn thì phải sửa soạn kỹ lưỡng. Nếu không tham gia
sẽ bị cho là bỏ lỡ cơ hội. Không tham gia sẽ đánh mất lòng dân và khó
giải thích với cộng đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng không tham gia thì
nếu sau này sử dụng biện pháp pháp lý thì Tòa sẽ cho rằng anh không có
quan tâm nên coi như đã từ bỏ. Tuy nhiên, khi xem xét dù các bên vắng
mặt Tòa cũng phải chú trọng đến quan điểm của họ. Chỗ này sẽ phải chờ
đến bản lĩnh của lãnh đạo và các tính toán về chính trị, kinh tế chứ
không đơn thuần là pháp lý nữa.
Mặt thuận: VN có cơ sở pháp lý lâu đời, kêu gọi được
sự ủng hộ quốc tế, đáp ứng được tình cảm nhân dân trong ngoài nước và
quốc tế, tài liệu chuẩn bị những năm qua có thể tương đối. Tuy nhiên
cũng cần điểm qua khả năng và các hạn chế để có phương án đối phó.
Điều khó nhất là Trung Quốc không chấp nhận ra Toà.
Sẽ có hai nội dung kiện a) Về chủ quyền b) Về các quyền sử dụng biển theo UNCLOS.
Nếu Trung Quốc chấp thuận ra Tòa
Trung Quốc có hạn chế chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa
bằng vũ lực. Việt Nam có lịch sử quản lý Hoàng Sa mạnh từ thế kỷ XVII
đến 1858. Từ 1858 đến 1925 khi Pháp quay lại công nhận chủ quyền Việt
Nam trên Hoàng Sa là một khoảng lặng. 1946 sau chiến tranh Pháp quay lại
chiếm nhóm phía đông còn Tưởng Giới Thạch trước đó ở nhóm Tây. 1956
Trung Quốc đuổi Tưởng Giới Thạch chiếm phía Tây cả VNCH và VNDCCH không
có ý kiến!?
Từ 1956 đến 1974 mới có sự lên tiếng từ VNCH và Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong thời gian 1956 đến 1975
VNDCCH cũng có một số động thái không có lợi như đã nói ở trên.
Nếu Tòa có thẩm quyền, không phụ thuộc mong muốn các bên, theo các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng sẽ có những khả năng sau:
1. Toà tuyên có lợi cho cả hai bên. Trung Quốc trả lại nhóm phía Đông đánh chiếm bằng vũ lực cho Việt Nam.
2. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng vùng biển xung quanh sử dụng chung như trường hợp của Na uy và Island sau Thế chiến II.
3. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng quần đảo chỉ có vùng biển hạn chế.
4. Quần đảo thuộc Trung Quốc có đủ đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
5. Quần đảo hoàn toàn thuộc Việt Nam.
Trong trường hợp TQ từ chối thẩm quyền về xét xử chủ quyền lãnh thổ
VN buộc phải lựa chọn Tòa nào có thể thụ lý vụ kiện
khi chỉ có một bên đơn phương đưa ra và chỉ về sử dụng vùng biển. Trung
Quốc cũng không có trách được vì họ gây hấn HS 981 trước. Không thể nói
VN theo Mỹ vì VN đã cố gắng chứng minh mong muốn đàm phán, thậm chí còn
nhờ đến cả Liên Hiệp Quốc, điều mà Philippines chưa làm hết. Chỉ có toà
trọng tài luật biển ITLOS với Phụ lục VII cho phép một bên đưa ra và câu
hỏi chỉ là giải thích và áp dụng công ước luật biển. Đây là cách
Philippines áp dụng. Trung Quốc đã bảo lưu các vụ kiện liên quan đến chủ
quyền, phân định theo Điều 298.
VN có thể áp dụng Điều 279 về hòa giải bắt buộc nhưng
cũng sẽ khó khăn. Vụ HS 981 nếu đơn phương đưa giàn khoan vào vùng biển
tranh chấp là hành động đáng bị lên án. Muốn xác định vùng tranh chấp
lại phải giải quyết vấn đề chủ quyền. VN không từ bỏ chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa còn Trung Quốc cho rằng Hoàng Sa thuộc họ không có tranh
chấp. Vị trí giàn khoan cách Lý Sơn 120 hải lý, cách Hải Nam 180 hải lý
tạo thành vùng chồng lấn. Còn nếu Phú Lâm có đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa thì khoảng cách 80 lý. Vì vậy Trung Quốc cho rằng nếu Hoàng Sa
thuộc họ vùng biển giàn khoan thuộc họ.
Tuy nhiên, Trung Quốc có điểm yếu sử dụng vũ lực
chiếm Hoàng Sa phi pháp nên Việt Nam không chấp nhận. Ngoài ra, còn vấn
đề quy chế đảo đá. Triton chắc Toà sẽ cho chỉ có 12 hải lý. Nhưng Phú
Lâm từ thời Pháp đã có người sinh sống nên dễ có đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Nếu giả thiết đảo không thuộc VN (đây là điều không muốn
nhưng chỉ nêu ra để tính), đảo sẽ có một phần hiệu lực 1/4, 1/3, 1/2…
đường phân định thì vị trí giàn khoan có thể rơi vào phần đường trung
tuyến phía Việt Nam (Cái này phải có sự kết hợp giữa chuyên gia Luật
biển và chuyên gia bản đồ để tính toán. Đây là điều công chúng cũng ít
phát biểu đến). Các vấn đề này cuối cùng vẫn quay lại chủ quyền và Tòa
không có thẩm quyền. Toà chỉ sử dụng Điều 279 khi có khác biệt về giải
thích và áp dụng các bên sẽ quay về áp dụng Phụ lục II hoà giải bắt
buộc, tức các bên lại ngồi đàm phán.
Theo quan điểm luật quốc tế và định nghĩa quốc gia
phải hội đủ 4 yếu tố: lãnh thổ, dân cư, chính quyền và khả năng chủ thể
thì dù về mặt chính trị các bên có tranh cãi Nam Bắc là một mối, sự tồn
tại de facto VNDCCH và VNCH trong một hoàn ảnh đặc biệt là điều khó có
thể phủ nhận. Công ước này bàn về các trách nhiệm và nghĩa vụ kế thừa
giữa hai quốc gia trong các mặt hiệp định, vay nợ, lưu trữ… nhưng vấn đề
biên giới lãnh thổ không thuộc diện điều chỉnh của Công ước. Năm 1976
Quốc hội đã thông qua bầu cử thành lập CHXHCNVN trên cơ sở VNDCCH và
Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là bên thừa kế
các vấn đề lãnh thổ của cả hai thực thể trước.
Vấn đề ở đây lại là “bên thắng cuộc” như mọi người
ngầm hiểu là VNDCCH trước kia lại có lập trường “thụ động” trong các
tuyên bố chủ quyền. Tòa sẽ cho phép CHXHCNVN chọn lấy những gì tốt nhất
cho mình hay phải kế thừa cả mặt tích cực và tiêu cực của những hành
động trong quá khứ. Đâu là thời điểm kết tinh tranh chấp… Đó là những
vấn đề rất khó tiên lượng Tòa sẽ phán quyết thế nào.
Trường hợp kiện Trường Sa thì Tòa có thể gộp vụ kiện
của Philippines với vụ kiện của Việt Nam do có cùng đối tượng kiện là
đường lưỡi bò. Kiện cả Hoàng Sa – Trường Sa cũng có những vấn đề tương
tự
Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng Trung Quốc có
thể tính đến việc rút khỏi UNCLOS. Làm vậy họ cũng mất uy tín nhưng họ
sẽ bất chấp.
Lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn
Chuẩn bị tốt cho các vụ kiện Việt Nam cũng phải thống
nhất nội bộ về quy chế pháp lý của đảo và đường cơ sở phù hợp với Công
ước luật biển. Ngoài ra, khi quyết định, không chỉ đơn thuần pháp lý mà
phải hiểu pháp lý là một vũ khí, một biện pháp nhằm tác động tới cái
đích cuối cùng là chính trị.
Bàn cờ chính trị thế giới đang thay đổi với sự đi lên
của Trung Quốc, sự đi xuống hay ngang của Mỹ, sự trở lại của Nga. Biển
Đông đang dần trở thành vũ đài giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. Ai
cũng muốn độc tôn và lôi kéo liên minh. Hiện Việt Nam đang vất vả chống
Tàu. Sắp tới nếu Mỹ, Nhật, Philippines đồng ý thành lập một liên minh
chống Trung Quốc thì Việt Nam có tham gia không? Nếu xảy ra chiến sự thì
họ sẽ làm gì, sẽ giúp vũ khí để Việt Nam chiến đấu? Lịch sử cho thấy
mỗi khi Việt Nam nghiêng về một cường quốc nào thì chính Việt Nam phải
chịu biết bao đau thương, mất mát.
1954-1975 chúng ta tự hào trên tuyến đầu của CNXH
chống Mỹ, 1979 Việt Nam ký Hiệp định liên minh với Nga và chịu trận trên
biên giới Việt-Trung. VN đồng thời phải giải quyết hai yêu cầu bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để tăng cường
tiềm lực bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Làm thế nào để thoát thế kẹt giữa
hai siêu cường?. Một quyết định dựa trên cân nhắc đầy đủ các thông tin,
tình thế, vận mệnh dân tộc buộc những người lãnh đạo phải sáng suốt lựa
chọn.
Nhìn ra bên ngoài, dù không ở trong tình trạng cấp
thiết như VN nhưng Mailaysia đã xử lý rất tốt trong quan hệ với Mỹ và
Trung Quốc. Malaysia vừa kiên quyết với Trung Quốc vừa công nhận vai trò
đi lên của Trung Quốc nhưng đó phải là sự đi lên với trách nhiệm của
một cường quốc, chứ không phải là kẻ lớn bắt nạt nước bé.
Trong khi chờ quyết định kiện, cũng nên thấy VN đã
hành động đúng khi chỉ cho cảnh sát biển và kiểm ngư ra đấu tranh tuyên
truyền buộc Trung Quốc rút khỏi giàn khoan. Trong những ngày đầu tiên
tàu Kiểm ngư VN còn dùng súng nước bắn trả nhưng những ngày sau VN đã
xác định chỉ dùng biện pháp hòa bình. Ngoại giao VN đã có những hoạt
động đáng kể, dù hai bên đã cáo buộc nhau lên Liên Hiệp Quốc, đều đã
tung ra các lập luận, bằng chứng của mình. Có thể coi gần như một cuộc
tập dượt kiện nhau ra Tòa. Sự kết hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý và
thực địa là một giải pháp tốt. VN đã lựa chọn chiến thuật, cách đối phó
phù hợp với lực của mình, lấy yếu chọi mạnh, lấy nhàn hạ chọi kẻ nôn
nóng.
Vụ HS 981 này, VN cần kiên trì quấy đảo. Trung Quốc
sẽ không rút ngay vì sợ mất thể diện, trừ khi có điều kiện bất khả kháng
như bão hoặc họ tuyên bố hoàn thành mục tiêu trước thời hạn. Đẻ lâu họ
cũng mệt mỏi vì chi phí giàn khoan và hơn 130 tàu là rất lớn dù họ giàu.
Họ sẽ thay đổi chiến thuật, sử dụng tàu cá vỏ sắt nhiều hơn để thay
thế. Việt Nam kiên trì thực địa kết hợp đấu tranh và tuyên bố kiên quyết
đưa ra tòa án quốc tế là hay nhất. VN có thể yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử
Ủy Ban điều tra hoà giải. Uỷ ban chỉ có tính khuyến nghị nhưng là biện
pháp hai bên có thể chấp nhận trong tình hình hiện nay.
Hy vọng trong những lúc nguy nan, trí tuệ Việt Nam
bao giờ cũng tìm được đường ra. Một giải pháp chiến tranh không ai muốn
nhưng nếu cần thì Việt Nam chắc cũng sẵn sàng. Việt Nam sẽ là bên chịu
tổn hại kinh tế nhiều nhất nhưng lâu dài Trung Quốc sẽ mất thế chính trị
và sa lầy trong cuộc chiến, hủy hại giấc mơ Trung Hoa của họ. Một cuộc
chiến tranh du kích trên biển là tốt nhất với Việt Nam. Một nhóm cướp
biển Xomali với tàu nhỏ cao tốc và AK mà bao năm nay thế giới có khống
chế được đâu. Với chiều dài bờ biển của mình, Việt Nam có thể bố trí tên
lửa và thủy lôi, mìn dày đặc, đánh mạnh vào các đoàn tàu vận tải dầu.
Một chiến thuật như Trần Khánh Dư diệt đoàn thuyền lương Trương Hổ vậy.
Lịch sử cho thấy chưa bao giờ Trung Quốc bước qua được Việt Nam để xuống
phía Nam bằng vũ lực. Nếu Trung Quốc nghĩ lại thì hai bên bắt tay nhau
chung sống hòa bình. Việt Nam công nhận vai trò cường quốc châu Á của
Trung Quốc trên cơ sở họ tôn trọng độc lập của Việt Nam.
Sẽ rất cần tìm cách để chúng ta “thoát lú” và hữu
nghị viển vông, an toàn bằng tất cả các biện pháp cần thiết bao gồm cả
ngoại giao và pháp lý. Tin rằng, chúng ta sẽ thắng và giải pháp pháp lý
cần phải xúc tiến ngay trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng.
Thay cho lời kết
Đọc Kim Dung “Thiên long bát bộ” nhớ lại ván cờ vây
trên đỉnh Thiên sơn của Tô Tinh Hà. Bao nhiêu cao nhân anh hùng trong
thiên hạ được mời đến đều phải bó tay trước nước cờ bí hiểm và đầy huyền
thoại này. Người giải được nước cờ này cuối cùng lại là một nhân vật
rất bình thường, một tiểu tăng không tên tuổi của phái thiếu lâm Hư
Trúc. Nhân vật này không phải là cao thủ chơi cờ và vô tình đã gạt bỏ
được những nguyên lý tri thức cao siêu “viển vông mơ hồ” của cờ vây để
đi một nước cờ rất sơ đẳng và hết sức bình thường mà chẳng cao nhân nào
nghĩ tới. Chính lối chơi này đã phá được nước cờ vây bí hiểm một cách
thần kỳ và ngoạn mục. Phải chăng trong chuyện này, Kim Dung muốn nhắc
tới một nguyên lý cơ bản, trí tuệ nhân dân và cơ hội lịch sử sẽ tạo nên
sự thần kỳ.
T.V.T.
Tác giả gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét