Basam
Foreign AffairTác giả: Peter Martin và David Cohen
Người dịch: Huỳnh Phan
03-06-2014
Một năm rưỡi sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (TCB) cầm quyền, ông là ai và ông muốn gì vẫn còn là một bí ẩn. Đôi khi ông có vẻ như là một nhà cải cách theo khuôn mẫu của Đặng Tiểu Bình; một trong những hành động đầu tiên của TCB khi nắm quyền là diễn lại chuyến “Nam du” của nhà cải cách vĩ đại đó, khởi động cho cải cách thị trường sau vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989.Có lúc ông lại có vẻ như luyến tiếc chủ nghĩa xã hội cách mạng của Mao Trạch Đông. Vài tháng sau chuyến nam du, TCB đã có chuyến thăm tới Tây Bách Pha (Xibaibo), chỗ đóng cuối cùng của Bộ Tư lệnh Quân đội Giải phóng Nhân dân TQ trong cuộc nội chiến Trung Quốc và một địa điểm thiêng liêng cho phe cánh tả của Mao.
Chính sách của TCB cũng mâu thuẫn như hình ảnh của ông. Ông ta đã đưa ra các lực đẩy mạnh để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và ngăn chặn tham nhũng. Nhưng ông lại kèm chúng với cam kết giữ doanh nghiệp nhà nước như là “cốt lõi” của nền kinh tế và đàn áp sâu rộng giới bất đồng chính kiến. Vì vậy, liệu TCB có ý định mở ra một kỷ nguyên mới cho cải cách đưa Trung Quốc vào thế giới hiện đại trọn vẹn, hay có ý định tăng gấp đôi nền cai trị độc đoán tập quyền và làm sống lại chủ nghĩa Mác dân tuý theo kiểu Mao?
Nói tóm lại, tất cả các điều bên trên, cải cách kinh tế của TCB và xu hướng chính trị theo chủ nghĩa Mao của ông đều là các chiến thuật trong một chiến lược với ý nghĩa là giữ nguyên hệ thống độc đảng qua việc cải cách nó. Phương pháp của ông minh chứng sự thừa nhận của ông về vấn đề lớn nhất hiện nay của Trung Quốc: tham nhũng tràn lan, hệ thống chính trị xơ cứng, và mô hình kinh tế đang nhanh chóng mất hết lực đẩy. Để giải quyết những điều đó mà không huỷ bỏ hệ thống đã đưa cho ông lên quyền lực, TCB hứa hẹn hòa giải các công ty nhà nước kiểu Mao và sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc với một nền kinh tế năng động và cởi mở. Ông sẽ làm điều đó bằng cách thực hiện điều mà ông gọi là “hai tay”, nhà nước và thị trường, cùng nhau làm việc và tạo cảm hứng cho đảng tin vào chính mình và sứ mệnh phục vụ người dân Trung Quốc.
BÀN TAY CỦA TCB
Trong thập kỷ qua, TCB đã tham dự vào một cuộc tranh luận dữ dội về vai trò của nhà nước và thị trường ở cấp cao nhất của đảng. Một bên là những người cho rằng tinh thần cải cách được hình thành dưới thời Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư đảng từ năm 1989 đến năm 2002, đã bị mất đi do bế tắc chính trị và các nhóm lợi ích có thế lực không chấp nhận cải cách thêm nữa. Bên khác là những người cho rằng việc theo đuổi hấp tấp thị trường hóa đã khiến đảng mất cảm giác về mục đích và tạo ra mức độ bất bình đẳng và tham nhũng không kham nổi.
TCB tìm ra một cách để tách rời sự khác biệt này. Ông lập luận rằng nhà nước và thị trường không buộc phải đối chọi nhau. Ông nói “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của nhà nước có thể củng cố lẫn nhau. Như ông giải thích trong cột báo thường xuyên trên tờ Chiết Giang Hàng ngày, bàn tay thị trường nên “điều chỉnh” nền kinh tế, phát huy hiệu quả, và hướng dẫn việc phát triển đô thị, trong khi bàn tay nhà nước nên tập trung vào quản lý xã hội, dịch vụ công cộng, công bằng và phát triển nông thôn. Lý thuyết này cho phép ông tự định vị mình vừa là một nhà cổ vũ cho khu vực nhà nước, vừa là một đồ đệ của Adam Smith: “Khái niệm về thị trường hóa được giải thích rất rõ ràng trong quyển Wealth of Nations của Adam Smith mà ông đưa ra lý thuyết về hai bàn tay ở đó”, TCB nói với CCTV, đài truyền hình chính của Trung Quốc, vào năm 2006.
TCB đưa mô hình của mình vào thực hiện ở Chiết Giang, nơi ông là bí thư từ năm 2002 đến năm 2007. Tại tỉnh đó, ông nhắm tới việc hậu thuẫn doanh nghiệp tư nhân, gồm cả việc giảm bớt rất nhiều thói quan liêu hành chính (danh sách các thứ đòi hỏi chính phủ phê duyệt đã giảm từ 3.000 xuống chỉ còn 800). Đồng thời, ông cố hết sức để trấn an công chúng, quan chức rằng doanh nghiệp nhà nước vẫn sẽ là quan trọng. Ông bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vốn bị phe tự do kinh tế xem như tội lỗi nhất trong mô hình nhà nước đầu tư quá mức không kham nổi của Trung Quốc. Ông giải thích rằng việc chính phủ hậu thuẫn nhiều hơn cho các công ty tư nhân có thể cải thiện khu vực nhà nước qua việc làm cho nó có tính cạnh tranh. Rồi thì doanh nghiệp nhà nước cũng có thể được hưởng lợi nhờ đầu tư tư nhân nhiều hơn, và chính phủ sẽ có được thuế doanh thu nhiều hơn.
Kinh nghiệm của TCB ở Chiết Giang dường như biện minh cho mô hình của ông. TCB tự hào rằng, trong các năm 1978-2004, 71,4 % tăng trưởng GDP của Chiết Giang là từ các doanh nghiệp tư nhân, ngay cả khi tổng kích cỡ tài sản nhà nước của nó đã tăng lên 42 lần.
Mô hình TCB cũng đã tỏ ra hữu hiệu cho ông ta. Trong giai đoạn làm bí thư ở Chiết Giang, TCB chắt lọc công trình về kinh tế thành hai cuốn sách, được xuất bản trong tháng 12 năm 2006 và tháng 8 năm 2007: Làm việc với những thứ thật, bước đi ở vị trí hàng đầu và Những Suy tư từ sông Dương Tử. Cả hai đều góp phần giúp ông ta giành chiến thắng một trong những cuộc bầu cử bí ẩn nhất thế giới – chọn ra người đứng đầu chính phủ lần đầu thực hiện bởi “ban lãnh đạo tập thể” của Trung Quốc trong những năm dẫn đến việc chuyển giao quyền lực năm 2012. Hai người tiền nhiệm của ông, Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân, đều được Đặng Tiểu Bình chọn ra. Trước khi nghỉ hưu và cuối cùng mất năm 1997, Đặng Tiểu Bình thiết lập một hệ thống – mờ đục và khó hiểu với người ngoài đảng – cho tầng lớp chủ chốt đảng đồng ý về một nhà lãnh đạo tối cao mà không có sự hướng dẫn của các thế hệ cách mạng ban đầu. Hệ thống đó có nghĩa là TCB phải giành chiến thắng trên một nhóm chủ chốt đông đảo để được lựa chọn. Trong một chừng mức nào đó, quan hệ gia đình, đỡ đầu chính trị, thông đồng, liên minh, và những người ủng hộ giúp làm công việc đó. Nhưng TCB cũng phải chứng tỏ rằng ông có thể tin cậy được với một trong những mục tiêu mà tất cả mọi người đã thống nhất: giữ cho đảng được tiếp tục nắm quyền. Và ở đó, lý thuyết của ông cho thấy là có tính thuyết phục.
Sau khi giành được quyền lực đất nước, TCB được ủy nhiệm để thực hiện chiến lược “hai tay” trên một quy mô lớn hơn. Là chủ tịch Trung Quốc, ông đã cố hậu thuẫn thị trường bằng cách bãi bỏ việc phê duyệt của chính phủ đối với nhiều loại hoạt động kinh tế và kinh doanh; cải cách khu vực tài chính, bao gồm cả việc cho phép ngân hàng tư nhân; tạo dễ dàng cho việc thiết lập các công ty mới; và đưa nhiều khu vực kinh tế hơn vào môi trường cạnh tranh. Ông cũng đã cố gắng áp đặt kỷ luật tài chính lên doanh nghiệp nhà nước bằng cách đưa chúng vào môi trường cạnh tranh lớn hơn và khuyến khích đầu tư tư nhân trong khu vực nhà nước. Như TCB nói tại Quốc hội hồi tháng Ba, ông hy vọng những cải cách này “không những không làm suy yếu mà còn tăng cường” doanh nghiệp nhà nước. Do đó hai tay đã trở thành phương cách trung tâm mà chính quyền TCB tóm tắt cách tiếp cận nền kinh tế. Ngày 27/05, TCB chủ trì một “buổi nghiên cứu tập thể” của Bộ Chính trị, trong đó nêu cụ thể rằng “hai tay” cần làm việc với nhau theo cách “thống nhất, bổ sung và phối hợp lẫn nhau”. Cơ quan ngôn luận của đảng, tờ Nhân Dân Nhật báo, đã gọi sự kiện hai tay như “mệnh đề cốt lõi của quá trình cải cách”.
TCB cũng đã đưa lý thuyết kinh tế của mình vào lĩnh vực xã hội. Ông lập luận rằng, giống như thị trường có thể hậu thuẫn một nền kinh tế tập quyền thì xã hội dân sự cũng có thể làm việc với một nhà nước áp bức để hậu thuẫn trật tự xã hội. Ở nước Trung Quốc của TCB, người dân có thể đóng góp như những “lực lượng xã hội tích cực”. TCB đã thúc đẩy ban hành các quy định mới làm cho việc đăng ký các tổ chức phi chính phủ dễ dàng hơn và cho các tổ chức phi chính phủ phối hợp với chính quyền địa phương cung cấp các dịch vụ xã hội. Ông cũng đã hạn chế hoặc bãi bỏ các thói lạm dụng công khai, chẳng hạn như cải tạo lao động. Nhưng đồng thời, chính phủ của ông đã tăng cường đàn áp. Ông không thay đổi ý kiến về tự do bày tỏ hoặc lập hội, và ông đã ban hành luật mới chống các tội mơ hồ như “lan truyền tin đồn”.
TRỞ LẠI TƯƠNG LAI CỦA MAO
Trong những năm tới, TCB sẽ phải đối mặt với những gì ông và các tiền nhiệm đã mô tả như là một mối đe doạ huỷ diệt tiềm tàng cho tính chính đáng của đảng: tham nhũng. Ông sẽ phải tìm ra cách để kiểm soát sự lạm dụng quyền lực thường ngày vốn kích động sự phẫn nộ và phản đối của công chúng- hối lộ, phá bỏ cưỡng bức, và sự thờ ơ cố ý đến sức khỏe và an toàn công cộng. Các chiến dịch do các tiền nhiệm TCB phát động thử nghiệm và thất bại trong việc giải quyết những vấn đề này, vì các quan chức địa phương chỉ đơn giản là từ chối thay đổi thói quen của họ, tin tưởng rằng “núi thì cao còn hoàng đế thì ở xa.” Tuy nhiên, lần này TCB đã hướng về Mao để tìm câu trả lời.
Mao biết cách để thu được sự chú ý của người dân: động viên và khủng bố tư tưởng. Ông có thể truyền cảm hứng cho hàng triệu người Trung Quốc đấu tranh cho sự thay đổi, ngay cả khi thay đổi đó là các mưu đồ chỉ có ý nghĩa với chính ông ta và dẫn đến chết chóc hàng loạt và đau khổ. Bây giờ, phải đối mặt với hàng triệu cán bộ miễn cưỡng chấp nhận cải cách, TCB hy vọng sẽ khai thác loại sức mạnh đó để làm trong sạch nội bộ đảng. TCB từng là một người ủng hộ việc tự phê bình kiểu Mao kể từ năm 2004 và đường lối quần chúng ít nhất là từ năm 2006. Từ lâu, ông là người ủng hộ một lập trường cứng rắn của đảng về tham nhũng.
Từ khi trở thành chủ tịch nước, TCB đã yêu cầu các quan chức nghiên cứu chủ nghĩa Mao, đặc biệt là “đường lối quần chúng” của Mao cho rằng đảng phải vừa là một bộ phận của nhân dân vừa có khả năng lãnh đạo họ. Tới lượt mình, TCB đã đặt ra giới hạn cho các tiệc tùng chính thức, tặng quà, và sử dụng xe công, và đã khuyến khích các quan chức đối thoại với công chúng. Ông đã xuất hiện tại các nhà hàng ở Bắc Kinh, ở các phố xá mua bán sầm uất, và cùng với các thành viên trong ban lãnh đạo, ông cũng đã chỉ thị nhiều phiên “tự phê bình”, trong đó cán bộ đảng công khai đánh giá thành công của họ trong việc kết nối với người dân.
TCB đã yêu cầu các quan chức dưới quyền ông từ bỏ nhiều đặc quyền chức vụ. Ông nói, nguyên tắc đó là sự sống còn của đảng. Một chiến dịch giáo dục dựa trên “Tài liệu số 9″ nổi tiếng đã thúc đẩy điều mà lý thuyết đảng gọi là “cảm nhận mối nguy” về nỗi đe dọa sụp đổ của đảng do lật đổ nội bộ và nỗ lực phá hoại của nước ngoài. Đối với nhiều quan chức, điều đó quá đủ: các quan chức địa phương than phiền về sự sụt giảm đáng kể quà tặng chính thức trên cả nước, và khu vực sang trọng cuối cùng cũng đã bị ảnh hưởng nặng.
Đối với những ai không chấp nhận theo dự án của TCB, thì ông phát động cuộc thanh trừng lớn nhất trong nhiều thập kỷ. Vũ khí chọn lựa của ông là Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, tổ chức chống tham nhũng của đảng, mà TCB đã tăng cường rất nhiều dưới sự lãnh đạo của người bạn lâu dài và đồng minh Vương Kỳ Sơn. Ông Sơn đã chủ trì việc tạm giữ hàng trăm quan chức trong đảng, chính phủ, ngành công nghiệp, và giới học thuật. Những ai bị điều tra đều hoàn toàn biến mất và phải chịu nỗi kinh hoàng. Một người sống sót gần đây mô tả với hãng tin AP là “địa ngục trần gian.
Dù vậy, việc TCB sử dụng nền chính trị kiểu Mao là có giới hạn. Không giống như Mao, TCB đã nỗ lực để giữ cho các chiến dịch chính trị và đàn áp trong vòng kiểm soát. Mao yêu cầu công chúng tham gia vào cuộc thanh trừng, tạo nên sự hỗn loạn trong Cách mạng Văn hóa. Ngược lại, các chiến dịch chính trị và thanh trừng của TCB được các cơ quan trung ương của đảng tổ chức và được ông và các uỷ viên Bộ Chính trị lãnh đạo. Họ có ý định tăng cường các tổ chức đảng hơn là phá huỷ chúng – vừa làm cho quyền lực của “bàn tay hữu hình” bảo đảm đủ trung thực để được chấp nhận vừa tranh thủ các quan chức cấp thấp thực hiện những thay đổi kinh tế mà TCB kêu gọi.
TẦM NHÌN TRONG ĐƯỜNG HẦM?
Ngay cả khi TCB cố khắc phục tham nhũng, ông cũng phải tìm mọi cách để kết thúc bế tắc chính trị. Trong nhiều năm qua, phương thức kiểm tra và cân bằng được Đặng Tiểu Bình đề ra để ngăn chặn việc xuất hiện lại nền độc tài kiểu Mao rốt cuộc tạo nên quy tắc thiếu quyết đoán của ban thường vụ. Đồng thời, đối tượng hưởng lợi của cải cách trước đây đã đứng lên chống lại thay đổi thêm nữa. Để bắt đầu chỉnh sửa chính trị, TCB đã rà soát toàn bộ bộ máy ra quyết định của đảng, nâng cao vị thế của nó để vượt qua bế tắc. Không ngạc nhiên, ông cũng đã tự dành cho mình rất nhiều khoảng trống để dẫn ở phía trước.
Trong hơn một thập kỷ, TCB đã lập luận rằng Trung Quốc cần một lãnh đạo mạnh mẽ và có tầm nhìn. Ở Chiết Giang vào năm 2003, ông đã viết rất nhiều về vai trò của nhân vật “số một” trong hệ thống lãnh đạo tập thể. Ông cho biết, bí thư phải là “hiện thân của cấp ủy Đảng và chính quyền” và vai trò của ông ta sẽ là dùng các tiếng nói khác nhau trong ban lãnh đạo và “biến chúng thành một bài hát.” Đổi lại, các nhà lãnh đạo khác phải luôn luôn “chú tâm đến việc nâng cao quyền hạn của Bí thư Đảng”.
Cố gắng ngoi lên trong một hệ thống quyền lực tập trung đầy ám muội, TCB phải cẩn thận khi bàn luận về những ý tưởng này. Và ông đã tránh nói trực tiếp về việc lãnh đạo quốc gia mà chỉ dùng các tiểu luận về chính quyền địa phương để giải thích kế hoạch của mình. Ông cũng cam chịu đau đớn để nhấn mạnh cam kết của ông với các nguyên tắc cơ bản của lãnh đạo tập thể. Ông viết nhân vật số một phải “không được hơn là một ngón tay, nhiều nhất là ngón tay cái” trong bàn tay của lãnh đạo.
Dù vậy, kể từ khi nắm quyền, TCB đã tập trung quyền hành vào các lãnh đạo chóp bu của đảng, đặc biệt là vào chính mình. Đáng chú ý nhất, ông đã tạo ra một loạt các nhóm lãnh đạo nhỏ và các ủy ban về cải cách kinh tế, an ninh quốc gia, an ninh mạng, và cải cách quân sự. Các tổ chức này không phụ thuộc vào chính phủ và do TCB chủ trì. Các nhóm này đặt ông ở trung tâm của hầu hết các hoạch định chính sách và tạo cho ông một nền tảng vững để ra quyết định mà không thể bị các nhóm lợi ích trong bộ máy quan liêu của Trung Quốc cản trở.
TCB cũng đã triển khai một vũ khí mà kể từ khi kết thúc Cách mạng Văn hóa và bỏ việc sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông đã làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc khó chịu: tầm nhìn. Chỉ vài ngày sau khi nắm quyền, ông đưa Ban Thường vụ mới tới cuộc triển lãm “Con đường hồi sinh” tại Bảo tàng quốc gia của Trung Quốc. Đứng trong phòng triển lãm, ông hỏi “giấc mơ Trung Quốc là gì?” và sau đó đã đưa ra câu trả lời: “Tôi tin rằng thực hiện việc trẻ hóa đất nước Trung Quốc là ước mơ lớn nhất của đất nước hiện nay.” Ngoài ra, không giống các tiền nhiệm mà các bài phát biểu của họ đầy các thuật ngữ chỉ những người trong đảng mới hiểu được, TCB đã dùng dáng vẻ bề ngoài của mình để nói với người dân, khai thác chủ nghĩa dân tộc được dân chúng quan tâm và trình bày những cải cách của mình như là chìa khóa cho sự trỗi dậy của Trung Quốc. Lời lẽ của ông ngầm tô vẽ các đối thủ của ông là không yêu nước.
Nhóm chủ chốt những người đã chọn TCB dường như đã thừa nhận ý tưởng của ông về ban lãnh đạo mạnh mẽ. Ông chắc chắn được giao cho các công cụ sắc bén hơn để thúc đẩy chương trình của mình mà những người tiền nhiệm của ông chưa từng có được. Ông thừa kế một Ban Thường vụ Bộ Chính trị đã được sắp xếp – cơ quan đầu não ra quyết định của đảng – đã được giảm xuống còn bảy thành viên ngay trước khi ông tiếp nhận. Ông cũng đã gần như được trao ngay lập tức các vị trí đứng đầu trong đảng, quân đội, chính phủ, mà người tiền nhiệm của ông đã phải chờ đợi nhiều năm mới nắm được. Tuy nhiên, cán cân quyền lực thực tế trong các tổ chức bí mật này là không rõ ràng với bên ngoài. Điều chắc chắn là để sử dụng hai tay cân bằng lại nền kinh tế, TCB đã thu tóm rất nhiều quyền lực. Can thiệp vào cán cân quyền lực trong các hệ thống độc đoán luôn luôn là điều nguy hiểm, vì vậy ông phải tìm những cách để làm điều đó mà không làm những đảng viên lão thành và các đồng nghiệp thù ghét.
NÂNG LÊN VÀ SAN BẰNG
TCB tin rằng cuộc tranh luận lớn về hệ thống chính trị của Trung Quốc đã kết thúc. Như ông nói với cử toạ châu Âu hồi tháng Ba, Trung Quốc đã “thử nghiệm chế độ quân chủ lập hiến, phục hồi đế chế, chế độ đại nghị, hệ thống đa đảng và chính phủ với tổng thống, nhưng không có thứ gì thực sự được việc. Cuối cùng, Trung Quốc đã đi trên con đường của chủ nghĩa xã hội”. Mặc dù có một số va vấp trên đường đi, “Sự độc đáo trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc, lịch sử và hoàn cảnh quy định rằng Trung Quốc cần phải theo một con đường phát triển phù hợp với thực tế của riêng mình. Thực tế là chúng tôi đã tìm thấy một con đường như vậy và đã đạt được thành công trên con đường này”.
TCB đã thuyết phục Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng ông biết cách bước đi tiếp. Ông đã được trao quyền rộng rãi để thực hiện nền kinh tế “hai tay” và nền chính trị theo chủ nghĩa Mao mới, thống nhất bởi ban lãnh đạo mạnh mẽ và chủ nghĩa dân tộc có uy lực. Để kéo dài chế độ đảng trị, chính phủ của ông đã hứa sẽ chỉnh sửa nó. Điều này có nghĩa là tạo ra những cải tiến thực sự cho cuộc sống của người dân qua việc cải cách nền kinh tế và ngăn chặn các quan chức nhỏ tranh thủ cướp đi. Nhưng một khu vực nhà nước mạnh mẽ và một bộ máy đàn áp mạnh mẽ cũng nằm ở trung tâm tầm nhìn của ông.
Cách tiếp cận “tất cả các thứ bên trên” của TCB được giữ với nhau bằng một ý tưởng đơn giản: giữ đảng ở vị trí cầm quyền. Nhưng để làm điều đó ông đang áp đặt những cải cách đau đớn, đưa các ngành công nghiệp nhà nước vào trong môi trường cạnh tranh, tấn công vào nhiều đặc quyền của đảng viên, và thay đổi cán cân quyền lực ở cấp chóp bu. Nếu dự án này mất niềm tin của giới chủ chốt Trung Quốc, nó có thể phá vỡ sự cân bằng quyền lực vốn giữ hệ thống lại với nhau và kích động một cuộc khủng hoảng. Trong lịch sử Liên Xô, hai nhà lãnh đạo đã cố gắng để thực hiện cải cách rộng lớn như vậy để hồi sinh một hệ thống trì trệ. Người thứ nhất, Nikita Khruschev, tạo ra một làn sóng các cuộc nổi dậy khắp Đông Âu và gần như bắt đầu một cuộc chiến tranh hạt nhân. Người thứ hai, Mikhail Gorbachev, đem tới sự tan rã của nhà nước-đảng Liên Xô. Cải cách một hệ thống độc tài là trò đánh bạc to vốn. Dự án này được vạch ra nhằm bảo đảm sự sống còn của hệ thống chính trị của Trung Quốc trong thế kỷ 21 – nhưng nếu nó không thành công, nó có thể gây đổ vỡ mọi thứ.
PETER MARTIN là Phó Giám đốc APCO Worldwide. DAVID COHEN là biên tập viên của tạp chí trực tuyến The Jamestown Foundation China Brief.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét