Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

Trật tự thế giới mới Lao động, vốn và sáng kiến trong kinh tế của luật lũy thừa

 Boxitvn

Tạ Dzu chuyển ngữ
Những tiến bộ kỹ thuật gần đây đã gia tăng tính thống nhất về thị trường lao động và tư bản/vốn toàn cầu. Ứng dụng tính thống nhất của hai yếu tố này tạo ra sự ổn định về giá cả, rất có lợi cho những quốc gia có lương nhân công rẻ và chi phí vay vốn thấp. Một số người lý luận rằng thời đại công nghệ tiến bộ đến chóng mặt này có lợi cho thị trường lao động, số khác lại cho rằng thuận tiện trong việc vay vốn. Cả hai ý kiến đã coi nhẹ một thực tế rằng công nghệ không chỉ kết hợp các nguồn vốn và lao động hiện tại, mà còn tạo ra những nguồn mới.

Máy móc đang thay thế cho nhiều kiểu lao động của con người hơn bao giờ hết. Sự thay thế này càng được lập lại bao nhiêu, càng tạo ra nhiều vốn bấy nhiêu. Điều này có nghĩa rằng sự thắng lợi thực sự trong tương lai không phải là những nơi cung cấp lao động rẻ hay chủ nhân của các nguồn vốn bình thường, cả hai đều sẽ bị ép buộc phải tự động hóa, mà cho nhân tố thứ ba: những người sáng tạo các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới.

Sự phân phối thu nhập cho tầng lớp sáng tạo này thường được thể hiện dưới hình thức của luật lũy thừa: một nhóm nhỏ được hưởng hầu hết lợi nhuận, kéo theo sau đuôi là một lô những người tham dự [vào việc sáng tạo] khác. Do đó trong tương lai, các đóng góp ý tưởng sáng tạo thực sự trở nên khan hiếm trên thế giới – khan hiếm hơn cả lao động và nguồn vốn – và những người cung cấp các ý tưởng tốt sẽ thu hoạch những thành quả rất lớn. Bảo đảm đời sống với tiêu chuẩn có thể chấp nhận được cho đa số những người còn lại và để xây dựng một nền kinh tế-xã hội toàn diện sẽ là một thách thức quan trọng trong nhiều năm sắp tới.
Khó Khăn Về Lao Động
Hãy lật iPhone của bạn ra phía sau, bạn sẽ đọc được một kế hoạch kinh doanh gói ghém trong tám từ phục vụ tuyệt vời cho Apple: “Thiết kế bởi Apple tại California. Lắp ráp tại Trung Quốc’’ (Designed by Apple in California. Assembled in China). Với số vốn theo giá thị trường trên 500 tỉ, Apple trở thành công ty có giá trị nhất hoàn cầu. Các biến thể của chiến lược này không chỉ hữu hiệu đối với Apple và các doanh nghiệp lớn khác trên thế giới, mà còn hữu hiệu cho các doanh nghiệp hạng trung, và ngay cả các doanh nghiệp đa quốc gia nhỏ. Ngày càng nhiều doanh nghiệp ứng dụng hai sức mạnh tuyệt hảo của thời đại chúng ta – công nghệ và toàn cầu hoá – để thu lợi nhuận.
Công nghệ đã đẩy toàn cầu hoá về phía trước, giảm thiểu đáng kể chi phí giao dịch, thông tin liên lạc và đưa thế giới đến gần hơn một thị trường lớn lao duy nhất về lao động, vốn, và các nguồn đầu vào khác phục vụ cho sản xuất. Mặc dù công nhân chưa hoàn toàn di chuyển tự do, nhưng các yếu tố khác ngày càng tăng sự dịch chuyển dễ dàng. Kết quả là, các thành tố khác nhau [dụng cụ, vật liệu…] được chuyển đến nơi công nhân làm việc với một ít khó khăn và tổn phí nhỏ. Khoảng một phần ba số hàng hóa và dịch vụ trong những nền kinh tế tiên tiến là có thể dùng để trao đổi buôn bán, nhưng con số này đang gia tăng. Ảnh hưởng của cạnh tranh toàn cầu lan toả sang cả những phần không giao dịch buôn bán, trong cả hai nền kinh tế tiên tiến và đang phát triển.
Tất cả những điều này tạo điều kiện không chỉ cho hiệu quả và lợi nhuận lớn hơn, mà còn tạo sự bất dịch chuyển chỗ làm rất lớn. Nếu một công nhân ở Trung Quốc hay Ân Độ có thể làm công việc giống như một công nhân ở Mỹ, thì định luật về kinh tế đặt định rằng cuối cùng, họ sẽ hưởng một đồng lương tương tự (được điều chỉnh đối với một số khác biệt về năng suất quốc gia). Một cách tổng thể, đó là tin tức tốt đẹp cho một nền kinh tế hiệu quả, cho người tiêu dùng và cho công nhân ở những nước đang phát triển – nhưng không cho công nhân ở những nước đã phát triển, đang phải đối mặt với sự cạnh tranh chi phí thấp. Nghiên cứu chỉ ra rằng các lãnh vực có thể giao dịch ở các nước công nghiệp tiên tiến đã không tạo ra được mức lao động ròng (net employment generator) trong hai thập niên qua. Điều đó có nghĩa là việc làm được tạo ra chỉ nội trong lãnh vực bất khả giao dịch (nontradable sector), nơi mà lương công nhân suy giảm vì ngày càng phải cạnh tranh với công nhân di dời từ lãnh vực khả thể giao dịch (tradable sector) chuyển sang.
Ngay cả khi câu chuyện toàn cầu hoá được tiếp tục, một hiện tượng lớn hơn đang bắt đầu diễn ra: câu chuyện về tự động hóa, rô bốt, in ấn ba chiều và những chuyện tương tự như vậy. Chuyện thứ hai đang vượt qua chuyện trước, với một số trong những tác dụng lớn nhất sẽ ảnh hưởng đến các công nhân không có tay nghề ở các quốc gia đang phát triển.
Ví dụ: đến thăm một nhà máy ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc, bạn sẽ thấy hàng ngàn người trẻ làm việc ngày này qua ngày khác, với một động tác lập đi lập lại như gắn kết hai phần của một bàn phím lại với nhau. Những công việc như vậy rất hiếm khi, hoặc có thể chẳng bao giờ, được nhìn thấy nữa ở Hoa Kỳ hay các nước giàu có khác. Nhưng nó cũng có thể không tồn tại lâu lắm nữa ở Trung Quốc và ngay cả phần còn lại của các nước đang phát triển, bởi các nước đó đang dính dáng đến các loại việc mà rô bốt có thể làm rất dễ. Khi các loại máy thông minh ngày càng rẻ và mua dễ dàng, nó sẽ càng thay thế cho sự lao động của con người, đặc biệt đối với các cơ xưởng sản xuất và các loại công việc có tính cách lập đi lập lại. Nói cách khác, mở hãng sản xuất ở những nước có lao động rẻ chỉ là trạm xưởng xa nhà trên đường tự động hoá.
Điều này sẽ xảy ra ngay cả ở những nơi có chi phí lao động thấp. Thật vậy, Foxconn, công ty Trung Quốc lắp ráp iPhone và iPad, có hơn một triệu người lao động thu nhập thấp – nhưng bây giờ, họ được bổ sung và thay thế bởi một đội quân ngày càng tăng của rô bốt. Thế là, sau khi nhiều công việc sản xuất được chuyển từ Mỹ sang Trung Quốc, chúng xuất hiện để rồi lại biến mất khỏi Trung Quốc. (Dữ liệu đáng tin cậy về quá trình chuyển đổi này khó có thể tìm được. Theo báo cáo chính thức về số liệu của Trung Quốc cho biết thì có sự sụt giảm 30 triệu việc làm thuộc ngành sản xuất từ năm 1996, hoặc 25 phần trăm trên tổng số, ngay cả khi sản lượng sản xuất tăng hơn 70 phần trăm, nhưng một phần của sự suy giảm này có thể phản ánh các sửa đổi trong phương pháp thu thập dữ liệu). Khi không còn phải theo đuổi thị trường lao động rẻ nữa, giá trị sản phẩm gia tăng vì tiết giảm chi phí tồn kho, thời gian giao hàng rút ngắn, hoặc đại loại như thế, và càng có lợi cho bất cứ chỗ nào là thị trường cuối cùng [nơi sản phẩm được tiêu thụ].
Khả năng phát triển của tự động hóa đe dọa một trong những chiến lược đáng tin cậy nhất mà các nước nghèo thường sử dụng để thu hút đầu tư bên ngoài: cung cấp lao động rẻ để bù đắp cho năng suất và công nhân kỹ năng thấp. Và xu hướng này sẽ mở rộng ra ngoài lãnh vực sản xuất. Ví dụ, hệ thống phản ứng tương tác giọng nói (interactive voice response system) giảm thiểu tương tác trực tiếp giữa người với người, đang gây trở ngại cho các trung tâm phục vụ khách hàng bằng điện thoại trong các nước đang phát triển. Tương tự như vậy, các thảo chương máy tính đáng tin cậy sẽ cắt bỏ công việc sao chép thường được thực hiện trong thế giới đang phát triển. Ngày càng nhiều lãnh vực sử dụng máy móc tinh khôn và linh hoạt thay thế cho nguồn chi phí hiệu quả nhất là “lao động” rẻ.
Khó Khăn Về Vốn
Nếu nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào không còn là con đường rõ ràng để phát triển kinh tế, vậy thì đó là gì? Một trường phái chỉ ra những đóng góp ngày càng tăng của vốn: các tài sản vật chất và phi vật thể kết hợp với lao động để sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho một nền kinh tế (hãy nghĩ đến các thiết bị, các tòa nhà, bằng sáng chế, nhãn hiệu, và những thứ tương tự). Như kinh tế gia Thomas Piketty lập luận trong cuốn sách bán chạy nhất của ông, Tư Bản Trong Thế Kỷ Hai Mươi Mốt, theo một điều kiện ông dự đoán cho tương lai thì vốn liếng của một nền kinh tế có xu hướng tăng lên khi hiệu suất sinh lợi trên vốn cao hơn hiệu suất tăng trưởng kinh tế. “Vốn tăng trưởng” trong các nền kinh tế mà Piketty dự báo sẽ tăng mạnh hơn nữa khi rô bốt, máy tính và phần mềm (tất cả đều là những hình thức vốn) ngày càng thay thế cho sự lao động của con người. Những kết quả trước mắt cho thấy rằng hình thức thay đổi công nghệ dựa vào vốn đang diễn ra tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.
Trong thập kỷ qua, sự phân rẽ liên tục tại Hoa Kỳ giữa [hai ý tưởng] tổng thu nhập quốc dân dồn cho lao động và rồi dồn sang cho vốn dường như đã thay đổi đáng kể. Các kinh tế gia Susan Fleck, John Glaser, và Shawn Sprague nêu ra trong Báo cáo của Cục Thống kê Lao động Hàng Tháng (Bureau of Labor Statistics’ Monthly Labor Review) năm 2011, thì “tỉ lệ lao động trung bình là 64,3 phần trăm từ 1947 đến năm 2000, đã giảm trong thập kỷ qua, và sụt giảm đến điểm thấp nhất ở quý ba năm 2010, chỉ còn có 57,8 phần trăm”. Di chuyển xưởng sản xuất về lại Mỹ từ nước ngoài, bao gồm cả quyết định của Apple nhằm sản xuất máy tính Mac Pro mới tại Texas, không đảo ngược xu hướng này. Để đạt được hiệu quả kinh tế, các cơ sở sản xuất mới tại nội địa cần phải được tự động hóa cao.
Các quốc gia khác đang chứng kiến ​​xu hướng tương tự. Hai kinh tế gia Loukas Karabarbounis và Brent Neiman ghi nhận sự sụt giảm đáng kể trong tỉ lệ lao động của GDP đối với 42 trong số 59 quốc gia mà họ nghiên cứu, bao gồm cả Trung Quốc, Ấn Độ và Mễ Tây Cơ, mô tả phát hiện của họ là rõ ràng tiến bộ trong công nghệ kỹ thuật số là một động lực quan trọng của hiện tượng này: “Việc giảm giá tương đối của các thiết bị đầu tư [để sản xuất] thường đóng góp vào sự tiến bộ của công nghệ thông tin và thời đại vi tính, khiến các hãng xưởng thay đổi quan điểm, từ chú ý đến số lượng công nhân để hướng sang vốn liếng. Việc giảm giá các thiết bị đầu tư giải thích cho một nửa sự sụt giảm của tỷ lệ lao động”.
Nhưng nếu tỉ lệ vốn của thu nhập quốc gia gia tăng, việc tiếp tục xu hướng này trong tương lai có thể gây nguy hiểm khi những thách thức mới đối với vốn xuất hiện – không phải từ một sự điều chỉnh lao động nhưng từ một đơn vị ngày càng quan trọng trong chính chức năng của vốn: đó là vốn kỹ thuật số.
Trong một thị trường tự do, phần lợi nhuận lớn nhất thuộc về sự khan hiếm nguồn đầu vào cần thiết cho sản xuất. Với một thế giới mà các loại vốn chẳng hạn như phần mềm và rô bốt có thể được nhân rộng với giá rẻ, thì giá trị biên (maginal value) của nó sẽ có xu hướng giảm, thậm chí khi chúng được sử dụng tổng hợp. Ngay cả khi vốn được đưa vào [sử dụng với chi phí rẻ], giá trị vốn hiện có sẽ thực sự suy giảm. Không như các hãng xưởng truyền thống, nhiều loại vốn kỹ thuật số có thể thêm vào [trong tiến trình sản xuất] với giá cực rẻ. Ví dụ phần mềm được sao chép và phân phối mà hầu như chi phí không tăng. Và các thành tố phần cứng máy tính, chi phối bởi các biến thể của định luật Moore’s, sẽ ngày càng rẻ hơn theo thời gian. Vốn kỹ thuật số, nói một cách ngắn gọn, vừa dồi dào, có chi phí biên thấp và ngày càng quan trọng trong hầu hết các ngành công nghiệp.
Ngay cả khi vốn trở nên quan yếu, tỉ lệ lợi nhuận thu được của nhà đầu tư gia tăng không nhất thiết liên quan đến lao động. Tỉ lệ đó phụ thuộc vào sự chính xác đến từng chi tiết đối với các hệ thống sản xuất, phân phối và quản trị.
Trên tất cả, phần thưởng lợi nhuận phụ thuộc vào nguồn đầu vào nào dùng để sản xuất, khan hiếm nhất. Nếu công nghệ kỹ thuật số tạo ra những yếu tố thay thế cho một loạt các loại công việc với giá rẻ, thì đây là thời điểm không nên là một người lao động. Nhưng nếu công nghệ kỹ thuật số ngày càng thay thế cho vốn, thì các chủ sở hữu vốn cũng không nên mong đợi sẽ kiếm được lợi nhuận qua việc bỏ ra một số vốn đầu tư kếch sù.
Khó Khăn Kỹ Thuật Bị Phá Vỡ
Điều gì khan hiếm nhất sẽ có giá trị nhất, đó là nguồn tài nguyên mà hai chúng tôi (Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee) gọi là “thời đại máy tính thứ hai”, phải chăng là thời đại của công nghệ kỹ thuật số và những đặc điểm kinh tế liên quan? [Thực ra] không phải là nguồn lao động bình thường, cũng không phải nguồn vốn thông thường nữa, nhưng là những người có sáng kiến và cải cách mới.
Tất nhiên, những người như vậy luôn có giá trị kinh tế, và kết quả là họ được hưởng lợi rất lớn từ các sáng kiến đưa ra. Tuy nhiên, họ phải chia sẻ lợi nhuận với vốn và người lao động, là nhân và tài lực cần thiết để đưa sáng kiến mới vào thị trường. Công nghệ kỹ thuật số ngày càng làm cho cả hai, lao động và vốn, trở thành các loại hàng hoá thông thường; do đó, những người sáng tạo, nhà cải cách và các doanh gia sẽ được hưởng tỉ lệ tưởng thưởng lớn. Những người có ý tưởng sáng tạo, không phải công nhân hoặc nhà đầu tư, sẽ là nguồn tài nguyên khan hiếm nhất.
Các nhà kinh tế với mô hình cơ bản thường giải thích tác động của công nghệ như là yếu tố tạo tăng trưởng đối với tất cả mọi thứ khác, và [hệ quả là] tăng năng suất tổng thể đồng đều cho tất cả mọi người. Mô hình này được sử dụng trong hầu hết các lớp học giới thiệu về kinh tế và cung cấp nền tảng cho sự hiểu biết phổ thông – nhưng, cho đến gần đây, trở nên khá mong manh dễ bị bác bỏ – trực giác cho biết rằng khi thủy triều của tiến bộ công nghệ dâng lên, sẽ nâng tất cả tàu thuyền lên đều nhau, làm cho công nhân hiệu quả hơn và do đó, có giá trị hơn.
Tuy nhiên, một mô hình hơi phức tạp và thực tế hơn cho thấy rằng công nghệ có thể không ảnh hưởng đến tất cả các yếu tố đầu vào như nhau, nhưng sẽ tạo thuận lợi hơn ở nhóm này so với người khác. Ví dụ, thay đổi kỹ thuật dựa trên kỹ năng thuận lợi với người lao động có tay nghề cao hơn là so với người có tay nghề thấp, và thay đổi kỹ thuật dựa trên vốn sẽ tạo thuận lợi đối với vốn hơn là người lao động. Cả hai loại thay đổi kỹ thuật này có vai trò quan trọng trong quá khứ, nhưng càng ngày, một loại thứ ba – những gì chúng ta gọi là thay đổi kỹ thuật siêu đẳng – sẽ dựa trên nền kinh tế toàn cầu.
Ngày nay, khá dễ để có thể hệ thống hóa nhiều mặt hàng quan trọng, dịch vụ và các quy trình [sản xuất]. Một khi đã hệ thống hóa, chúng có thể được số hóa, và khi đã số hóa, chúng có thể được nhân rộng. Bản sao kỹ thuật số có thể được thực hiện gần như không tốn kém và chuyển tới bất cứ nơi nào trên thế giới ngay lập tức, một bản sao chính xác y bản gốc. Sự kết hợp của ba đặc điểm – chi phí cực thấp, có mặt khắp nơi nhanh chóng, và sự in lại nguyên bản – dẫn đến một số nền kinh tế kỳ lạ và tuyệt vời. Nó có thể tạo ra sự phong phú chưa từng có do tình trạng khan hiếm, không chỉ đối với hàng tiêu dùng, chẳng hạn như videos âm nhạc, mà còn cho các yếu tố kinh tế đầu vào, chẳng hạn như một số loại vốn và lao động.
Lợi nhuận tại các thị trường như vậy thường theo một mô hình khác biệt – luật luỹ thừa, hoặc đường cong Pareto, trong đó một số lượng nhỏ các tham dự viên gặt hái phần thưởng một cách bất cân xứng [tức quá nhiều]. Hiệu ứng mạng, theo đó một sản phẩm càng trở nên có giá trị hơn khi càng nhiều người sử dụng nó, có thể tạo ra loại người mà khi thắng thì được hưởng tất cả hay chiếm lĩnh hầu hết thị phần. Hãy quan sát Instagram, [mạng] chia sẻ hình ảnh như một ví dụ về tính kinh tế của các nền kinh tế mạng kỹ thuật số. 14 người đã tạo ra một công ty không cần nhiều công nhân không có tay nghề làm việc, cũng không cần nhiều vốn tiền tươi. Họ xây dựng một sản phẩm kỹ thuật số và hưởng lợi từ hiệu ứng mạng, và sau một năm rưỡi, khi sản phẩm được sử dụng rộng rãi, họ đã bán công ty với số tiền là ba phần tư tỷ đô la – trớ trêu thay, vài tháng sau thì một công ty nhiếp ảnh khác, Kodak, phá sản, mà ở thời kỳ phát triển nhất, họ cần khoảng 145.000 công nhân và có trong tay cả hàng tỷ đô la tiền vốn.
Instagram là ví dụ điển hình của một quy luật tổng quát hơn. Thường thì khi những cải tiến trong công nghệ kỹ thuật số để số hóa một sản phẩm hoặc quy trình, người có sáng kiến đầu tiên nhìn thấy sự gia tăng thu nhập của mình rất rõ, trong khi kẻ tham dự thứ nhì hoặc những kẻ đến muộn sẽ rất khó cạnh tranh. Các nghệ sĩ biểu diễn hàng đầu trong âm nhạc, thể thao và các lĩnh vực khác cũng đã nhìn thấy thu nhập thu nhập của họ gia tăng từ những năm 1980, trực tiếp hoặc gián tiếp đi theo cùng một xu hướng như thế.
Nhưng không phải chỉ phần mềm và các phương tiện truyền thông đang chuyển biến. Số hóa và hệ thống mạng đang trở nên phổ biến hơn đối với mọi chức năng và ngành công nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, từ buôn bán lẻ tới các dịch vụ tài chính để sản xuất và tiếp thị. Điều đó có nghĩa là kinh tế siêu đẳng đang ảnh hưởng đến các loại hàng hóa, dịch vụ, và người dân hơn bao giờ hết.
Ngay các giám đốc điều hành hàng đầu đã bắt đầu kiếm tiền tương tự như các ngôi sao nhạc rock. Năm 1990, lương một giám đốc điều hành tại Hoa Kỳ là, trung bình 70 lần lớn hơn tiền lương của các người lao động khác; trong năm 2005, là 300 lần lớn hơn. Nói chung, điều này diễn ra trong cùng một hướng trên toàn cầu, mặc dù có khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Nhiều lực đẩy đang tiếp diễn, bao gồm thuế và những thay đổi chính sách, chuẩn mực văn hóa và tổ chức, lẫn yếu tố may mắn. Nhưng khi nghiên cứu của một trong chúng tôi (Brynjolfsson) và Heekyung Kim cho thấy, một phần của sự phát triển có liên quan đến việc sử dụng rất lớn công nghệ thông tin. Công nghệ mở rộng phạm vi, khả năng tiếp cận và giúp theo dõi nhân sự đưa ra quyết định, gia tăng giá trị của một quyết định đúng đắn qua sự lựa chọn của ông hay bà ta. Quản lý trực tiếp thông qua công nghệ kỹ thuật số làm cho người quản lý giỏi có giá trị hơn so với thời gian trước kia, vì giám đốc điều hành phải chia sẻ quyền kiểm soát với chuỗi dài những thuộc cấp mà họ chỉ có thể ảnh hưởng đến một phạm vi nhỏ các hoạt động [của công ty]. Ngày nay, giá trị thị trường của một công ty càng lớn, thì càng hấp dẫn đối với các lập luận rằng phải cố tìm cho bằng được những giám đốc điều hành hàng đầu để dẫn dắt công ty.
Khi thu nhập được phân phối theo quy luật luỹ thừa, hầu hết mức lương mọi người sẽ nằm dưới mức trung bình, và nền kinh tế quốc gia hiển nhiên đang ngày càng phụ thuộc vào những động lực như vậy, mô hình này sẽ đóng vai trò chính ở cấp quốc gia. Chắc chắn một điều, Hoa Kỳ hiện nay là một trong những quốc gia có mức bình quân đầu người GDP cao nhất thế giới – ngay cả khi thu nhập bình quân của mức giữa cao và thấp, về cơ bản, đã bị đình trệ trong hai thập kỷ qua.
Chuẩn Bị Cho Cuộc Cách Mạng Vĩnh Viễn
Các động lực đang thúc đẩy trong thời đại máy tính thứ hai rất mạnh mẽ, có tính tương tác và phức tạp. Khó có thể nhìn xa vào tương lai để dự đoán một cách chính xác tác động cuối cùng là gì. Tuy nhiên, nếu mỗi cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ hiểu những gì đang xảy ra, ít nhất họ có thể cố gắng điều chỉnh để thích nghi.
Lấy Hoa Kỳ làm ví dụ, cố gắng giành lại một số doanh nghiệp từ câu thứ hai trong kế hoạch kinh doanh tám chữ của Apple [Lắp ráp tại Trung Quốc – Assembled in China] cũng sẽ bị đảo ngược bởi kỹ thuật và phân xưởng sản xuất, một lần nữa, được thực hiện ngay bên trong biên giới Mỹ. Tuy nhiên, câu đầu tiên của kế hoạch [Thiết kế bởi Apple tại Cali – Designed by Apple in California] sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết; và ở đây, mối quan tâm, chứ không phải lòng tự mãn, xếp theo đúng thứ tự trước sau. Có thể là điều không may, sự năng động và sáng tạo đã làm cho Hoa Kỳ trở thành quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới, có lẽ đang sút kém.
Tạ ơn cuộc cách mạng kỹ thuật số, việc thiết kế và cải tiến, bây giờ cũng trở thành một phần của khu vực khả-giao-dịch trong nền kinh tế toàn cầu, và sẽ phải đối mặt với cùng một loại cạnh tranh đã biến đổi phương pháp sản xuất. Lãnh đạo về thiết kế phụ thuộc vào lực lượng lao động được đào tạo và một nền văn hóa kinh doanh, lợi thế truyền thống của Mỹ ở khu vực này đang giảm. Mặc dù Hoa Kỳ đã từng một lần dẫn đầu thế giới đối với tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp trong lực lượng lao động, có ít nhất một bằng cử nhân, đã tụt xuống vị trí thứ 12. Và bất chấp những tin đồn về khả năng kinh doanh ở những nơi như thung lũng Silicon, dữ liệu cho thấy từ năm 1996, số lượng công ty Mỹ mới ra đời sử dụng hơn một nhân viên đã giảm hơn 20 phần trăm.
Nếu các xu hướng đang được thảo luận mang tính toàn cầu, tác động của địa phương sẽ định hình, một phần, bởi các chính sách xã hội và đầu tư mà các nước chọn lựa thực hiện, trong lãnh vực giáo dục và trong việc thúc đẩy sự cải tiến và năng động kinh tế càng phổ cập. Trong hơn một thế kỷ qua, hệ thống giáo dục Mỹ là sự ghen tị đối với thế giới, với tính phổ quát là trung học tới lớp 12 và các trường đại học đẳng cấp thế giới đã giữ cho kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, giáo dục tiểu học và trung học ở Mỹ ngày càng trở nên không đồng đều, với chất lượng dựa trên mức thu nhập của khu gia cư chung quanh và [thầy cô] thường nhấn mạnh việc lập đi lập lại nhiều lần.
May mắn thay, cách mạng kỹ thuật số tương tự cuộc biến chuyển sản phẩm và thị trường lao động cũng có thể dùng để chuyển đổi nghành giáo dục. Học trực tuyến (online learning) có thể giúp sinh viên tiếp cận với giáo viên, nội dung và phương pháp tốt nhất bất kể họ đang ở đâu, và sự tiếp cận với kho dữ liệu mới vào lãnh vực này sẽ dễ dàng đo lường điểm mạnh, điểm yếu và học sinh có tiến bộ hay không. Điều này sẽ tạo cơ hội cho các chương trình học tập cá nhân được cải tiến liên tục, ứng dụng kỹ thuật thông tin phản hồi, điều đã biến chuyển ngành bán lẻ, sản xuất và địa hạt khám phá rất khoa học.
Thay đổi công nghệ và toàn cầu hoá có thể làm tăng sự giàu có và hiệu quả kinh tế của các quốc gia và thế giới nói chung, nhưng không phải sẽ lợi ích cho tất cả mọi người, ít nhất là trong ngắn và trung hạn. Cụ thể, công nhân bình thường sẽ tiếp tục chịu đựng gánh nặng của sự thay đổi, chỉ hưởng lợi ích như là người tiêu dùng chứ không nhất thiết như một người [trong guồng máy] sản xuất. Điều này có nghĩa rằng nếu không có sự can thiệp mạnh hơn nữa, bất bình đẳng kinh tế có thể tiếp tục tăng, đặt ra một loạt các vấn đề. Thu nhập bất bình đẳng sẽ dẫn đến bất bình đẳng cơ hội, khiến các quốc gia khó tiếp cận với nhân tài và phá hỏng hợp đồng xã hội. Trong khi đó quyền lực chính trị, thường theo sau sức mạnh kinh tế, trong trường hợp này dễ làm cho nền dân chủ yếu đi.
Những thách thức này có thể và cần phải được giải quyết thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng cơ bản chất lượng cao, bao gồm giáo dục, y tế và bảo đảm tài chánh khi nghỉ hưu. Các dịch vụ này rất quan trọng để tạo ra sự bình đẳng thực sự về cơ hội trong một môi trường kinh tế thay đổi nhanh chóng, đồng thời tăng tính di động giữa các thế hệ [để thu ngắn khoảng cách] về thu nhập, tài sản và triển vọng trong tương lai.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung, có sự đồng thuận từ hầu hết các kinh tế gia rằng nhiều chính sách cần thiết phải được đặt ra. Chiến lược cơ bản thì khá đơn giản nếu môi trường chính trị chưa cho phép: cần tăng cường đầu tư cho hiệu quả hơn vào khu vực công trong ngắn và trung hạn, cùng lúc đưa ra một kế hoạch củng cố tài chính hàng năm trong dài hạn. Đầu tư công được biết là mang lại lợi nhuận cao khi nghiên cứu về y tế, khoa học và công nghệ; trong giáo dục; và chi tiêu cơ sở hạ tầng, giao thông, sân bay, nước máy công cộng và hệ thống vệ sinh môi trường, cũng như năng lượng và mạng lưới thông tin liên lạc. Chính phủ tăng chi trong các lãnh vực này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện nay, ngay cả khi [dự trù] đầu tư của chính phủ sẽ tạo ra sự giàu có thực sự cho các thế hệ tương lai.
Khi cuộc cách mạng kỹ thuật số tiếp tục được đẩy mạnh trong tương lai vì nó đã được chứng minh trong những năm gần đây, cấu trúc của nền kinh tế hiện đại và vai trò của việc làm cần phải được xem xét lại. Như một tập thể, con cháu chúng ta có thể làm việc ít giờ đi và có cuộc sống tốt hơn – nhưng cả hai: công việc và những tưởng thưởng từ công việc có thể bị phân phối không đồng đều với một loạt các hậu quả khó chịu. Tạo sự phát triển bền vững, công bằng và rộng mở sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng hơn là một việc kinh doanh bình thường. Để bắt đầu về chuyện đó thì cần phải hiểu biết đúng đắn về mọi thứ đang biến chuyển xa và nhanh, thật sự như thế nào.
Dịch giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét