Thongluan
“…Hiện
nay, trong tình trạng “trên đe dưới búa” của chính quyền cộng sản Việt
Nam, lối thoát duy nhất và khôn ngoan nhất của họ bây giờ là “đái công
chuộc tội” bằng cách trở về với quốc gia dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc
lên trên quyền lợi của đảng, của gia đình cũng như của cá nhân mình…”
Cuối
tháng 5/2014 vừa qua, trong chuyến công du Philippines, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra trước toà án
quốc tế. Nhiều người thiện chí mừng rỡ ra mặt qua những bài viết trên
mạng. Nhưng sau đó dường như mọi chuyện xảy ra như chưa hề có lời tuyên
bố ấy. Những ai có kinh nghiệm về cộng sản, đặc biệt kinh nghiệm về
những lời tuyên bố trang trọng của Nguyễn Tấn Dũng, nghe xong đều bỏ
ngoài tai như những lời của trẻ con hay của “thằng Cuội” trong truyện cổ
tích.
Những
người tin rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã ký kết những mật ước bán nước
để đổi lấy sự bảo trợ của ngoại bang cho độc quyền cai trị của họ có thể
quả quyết : chẳng đời nào Đảng Cộng sản Việt Nam dám kiện Trung Quốc về
vụ Hoàng Sa và Trường Sa. Tất cả những tuyên bố phản đối Trung Quốc có
vẻ mạnh bạo của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đều chỉ là đóng kịch
hầu làm yên lòng dân chúng thôi. Vì hiện nay lòng dân đang hết sức
hoang mang lo lắng vì nghi ngờ rằng những mật ước mà Trung Quốc và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lén lút ký kết với nhau sẽ hết sức bất lợi cho vận
mạng và sự sống còn của dân tộc. Nếu những mật ước này được chính thức
tiết lộ và người dân bất ngờ biết được rõ ràng không thể chối cãi về dã
tâm bán nước của đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, thì sự phẫn nộ của người
dân sẽ vọt lên cao độ có thể nổ ra những cuộc biểu tình bạo động của
toàn dân ở khắp đất nước. Lúc ấy chế độ cộng sản chắc chắn sẽ sụp đổ.
Lúc
ấy, với thể chế mới nghiêng về tự do dân chủ, số phận của đảng và của
những người lãnh đạo đảng sẽ hết sức bi đát, và mộng thôn tính Việt Nam
hay mộng biến Việt Nam thành “sân sau” của Trung Quốc cũng tan thành mây
khói. Chính vì thế, cả Đảng Cộng sản Việt Nam lẫn Trung Quốc đều vì
quyền lợi của mình mà cùng cam kết giữ bí mật những mật ước ấy cho đến
thời điểm mà việc “bật mí” không còn gây nên bất lợi cho đôi bên nữa.
Mặc
dù nếu kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam
chắc chắn sẽ thắng, vì những bằng chứng lịch sử của Việt Nam về chủ
quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã hết sức rõ
ràng không thể chối cãi. Trong khi đó, lý chứng của Trung Quốc về chủ
quyền của họ trên hai quần đảo này rất yếu. Nếu lý chứng của Trung Quốc
mạnh và nếu họ nắm chắc phần thắng thì chắc chắn 100% họ sẽ không đe dọa
hầu ngăn cản Đảng Cộng sản Việt Nam kiện họ ra tòa án quốc tế. Vì thế,
nếu Đảng Cộng sản Việt Nam có can đảm kiện Trung Quốc, phần thắng chắc
chắn nằm về phía Việt Nam.
Về
phía Trung Quốc, ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 sự
kiện chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam đã công nhận hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là của Trung Quốc. 5 sự kiện đó gồm :
1.
Lời của Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao và của Lê Lộc,
Trưởng Vụ Á châu thuộc Ngoại giao Đảng Cộng sản Việt Nam thời Hồ Chí
Minh tuyên bố ngày 16-5-1956 khi tiếp Lý Chí Dân, đại diện Sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội, công nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc”, thậm chí “thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.
2. Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 mặc nhiên công nhận hai quần đảo trên thuộc Trung Quốc.
3.
Tuyên bố của Đảng Cộng sản Việt Nam thời Hồ Chí Minh ngày 9-5-1965 về
việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam cũng có đoạn công nhận “một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Salà của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”.
4.
Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Đảng Cộng sản Việt Nam
vào năm 1972 có ấn hành Tập Bản đồ thế giới không ghi tên hai
quần đảo quần đảo trên là Hoàng Sa và Trường Sa mà lại ghi là Tây Sa và Nam Sa, là tên do Trung Quốc đặt.
5. Nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội đã xuất bản sách Địa lý lớp chín năm 1974 có đoạn viết :“Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc”.
Những
bằng chứng kể trên của Trung Quốc có giá trị pháp lý rất yếu so với
những bằng chứng mà Đảng Cộng sản Việt Nam có thể đưa ra. Nếu Trung Quốc
chỉ đưa ra được một vài lời của cá nhân ông nọ ông kia thuộc chế độ
Đảng Cộng sản Việt Nam -một chế độ không có tự do ngôn luận- công nhận
hai quần đảo đó là của Trung Quốc, thì để đối đáp lại, Đảng Cộng sản
Việt Nam có thể trưng ra biết bao lời của những người có uy tín thuộc
chế độ Việt Nam Cộng Hòa -một chế độ mà người dân có quyền tự do ngôn
luận- công nhận ngược lại. Đó là chưa kể những văn bản và bản đồ trong
lịch sử của Việt Nam, của Trung Quốc và của thế giới làm chứng cho Việt
Nam. Những bằng chứng kể trên của Trung Quốc tuy hết sức rẻ tiền nhưng
lại làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam rất nhột, khiến Đảng Cộng sản Việt
Nam rất e dè không dám mạnh dạn kiện Trung Quốc. Tại sao vậy ?
Hiện
nay, ai cũng biết là hai đảng Cộng sản, Trung Quốc và Việt cộng, đã
từng lén lút ký kết với nhau những mật ước mà vì quyền lợi chung của cả
hai bên, nên cả hai đều hết sức giữ bí mật như đã cam kết. Tại sao lại
phải giữ bí mật, nếu không phải là một chuyện mờ ám ? Người dân có thể
đoán được lý do là những mật ước này chắc chắn có lợi cho tham vọng “độc
quyền trường trị Việt Nam” của đảng Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng hết
sức bất lợi cho quốc gia và dân tộc Việt Nam.Nội dung những mật ước này
cho tới nay chỉ có Bộ Chính Trị biết với nhau, còn người dân chỉ nhận
được những thông tin rò rỉ không chính thức nên chưa ai dám quả quyết
điều gì. Tuy nhiên, trong quá khứ, rất nhiều thông tin bị rò rỉ, ban đầu
không ai dám quả quyết, nhưng cuối cùng mọi người đều biết đó là sự
thật [1].
Theo tác giả Trần Gia Phụng (một sử gia ở Canada), thì Trung Quốc công bố 5 bằng chứng trên theo một kế hoạch từng bước, rất lớp lang [2].
Bước 1 : Công hàm Phạm Văn Đồng
được đưa ra sau khi giàn khoan 981 bị dân chúng Việt Nam biểu tình
chống đối dữ dội và bị Đảng Cộng sản Việt Nam lên tiếng phản đối (tương
đối mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mặc dù vẫn còn rất yếu so với mức độ hợp lý
phải làm). Công hàm ấy được đưa ra vào thời điểm này có tác dụng khiến
Đảng Cộng sản Việt Nam lo sợ nên đã ra lệnh cấm dân chúng biểu tình
chống Trung Quốc.
Hành
động cấm đoán này khiến người dân phẫn nộ chống luôn cả Đảng Cộng sản
Việt Nam. Vì qua hành động cấm đoán này, người dân thấy được bộ mặt thật
của Đảng Cộng sản Việt Nam là đồng lõa tiếp tay với Trung Quốc. Nước
mất tới nơi, kẻ thù đã vào tận nhà, thế mà đảng và nhà nước cầm quyền đã
không làm gì đủ mạnh để chống lại, lại còn cấm người dân phản đối thì
rõ ràng là tiếp tay giúp kẻ thù rồi còn gì nữa ? Để xoa dịu sự phẫn nộ
của dân chúng, Thủ tướng Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng khi công
du Philippines đã lên tiếng sẽ kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế.
Bước 2 : Vụ sách giáo khoa lớp 9 được đưa ra sau lời tuyên bố sẽ kiện Trung Quốc của Nguyễn Tấn Dũng tại Philippines.
Lúc này người dân thấy rõ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang ở trong thế “trên đe dưới búa”
giữa Trung Quốc và người dân trong nước. Vì thế phải làm sao xoa dịu
được sự phẫn nộ của cả hai phía. Điều này quả là nan giải, vì hễ xoa bên
này thì sẽ làm bên kia phẫn nộ và ngược lại. Nên lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam cứ phải “đu giây” giữa hai thế lực này để tồn tại. Do đó, mọi
hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn này hoàn toàn là
chỉ để đối phó sao cho xong chuyện, sao cho chế độ có thể tồn tại được.
Mọi cách lừa bịp, đóng kịch, giả bộ… đều có thể sử dụng.
Bước 3 : Trung Quốc đưa ra cùng một lúc năm bằng chứng kể trên để buộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhượng bộ Trung Quốc nhiều hơn.
Đặc
điểm của những bằng chứng trên không có giá trị pháp lý trước tòa án
quốc tế, nhưng có giá trị đe dọa rất lớn đối với giới lãnh đạo Đảng Cộng
sản Việt Nam, vì nó giúp người dân Việt trong nước cũng như hải ngoại
từ từ thấy được ngày càng rõ ràng và chắc chắn bộ mặt thật sự bán nước
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là điều mà Đảng Cộng sản Việt Nam muốn
che dấu với bất cứ giá nào, nhưng không ngờ Trung Quốc lại đang dần dần
“bật mí” từng bước một. Chắc chắn Trung Quốc sẽ tiếp tục “bật mí” nếu
Đảng Cộng sản Việt Nam hành động bất lợi cho Trung Quốc. Điều này khiến
Đảng Cộng sản Việt Nam vô cùng lo sợ.
Ba
bước trên được thực hiện rất tiệm tiến, từng bước một, là một thông
điệp mà Trung Quốc muốn nhắn nhủ Đảng Cộng sản Việt Nam : 5 bằng chứng
trên chưa phải là hết, vì sẽ còn những bằng chứng khác mạnh mẽ hơn
nhiều. Người dân trong nước khi biết chắc chắn những bằng chứng ấy là sự
thật sẽ phải “ngã ngửa” và “bừng bừng nổi giận”. Nếu Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết ăn thua với Trung Quốc, chẳng hạn, kiện Trung Quốc trước quốc
tế, hoặc đi với Mỹ để chống lại Trung Quốc, hoặc phản đối Trung Quốc
một cách quyết liệt, khiến mộng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc hoàn
toàn tan vỡ, thì Trung Quốc sẽ có thái độ “phá thối”, “ăn không được, phá cho hôi”. Điều này đương nhiên xảy ra và quả rất dễ hiểu đối với những “tên điếm”, những chế độ “tiểu nhân tới mức tận cùng” như Trung Quốc và Việt Nam.
Nếu
người dân phẫn nộ đến mức nổi lên lật đổ chế độ Đảng Cộng sản Việt Nam
và thiết lập chế độ tự do dân chủ thì Trung Quốc sẽ không thôn tính được
Việt Nam. Khi ấy Trung Quốc chỉ bị hụt hẫng vì đã hy sinh tiền bạc, vũ
khí giúp Đảng Cộng sản Việt Nam lên ngôi thống trị toàn Việt Nam mà kết
cuộc chẳng được gì. Nhưng số phận những tên lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam chắc chắn sẽ không khác gì số phận những tên độc tài phản quốc như
Gadhafi, Hussein, Honecker, Ceauşescu…
Chính
vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ, không dám làm gì mạnh tay đối
với Trung Quốc, không dám kiện Trung Quốc trước tòa án quốc tế về vụ
Trường Sa Hoàng Sa dù biết rằng hễ kiện thì sẽ thắng. Đảng Cộng sản Việt
Nam rất sợ những gì sẽ xảy ra sau đó vì chắc chắn Trung Quốc sẽ trả
thù. Những kẻ tiểu nhân và hèn hạ đều biết chúng sẽ bị đồng bọn đối xử
với chúng ra sao khi chúng phản bội.
Hiện nay, trong tình trạng “trên đe dưới búa” của Đảng Cộng sản Việt Nam, lối thoát duy nhất và khôn ngoan nhất của họ bây giờ là “đái công chuộc tội”
bằng cách trở về với quốc gia dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên
quyền lợi của đảng, của gia đình cũng như của cá nhân mình. Họ hãy kịp
thời chủ động chuyển đất nước sang thể chế dân chủ tương tự như Miến
Điện đã làm. Hãy trả tự do cho những người yêu nước đang bị cầm tù hay
quản chế, và mời những người yêu nước thương dân và có tài để cùng với
họ chuyển hóa đất nước sang thể chế dân chủ thật sự.
Người
Việt là một dân tộc rất sùng đạo, nói chung, họ đã thấm nhuần tinh thần
đạo đức của các tôn giáo lớn, chắc chắn họ sẵn sàng tha thứ cho những
kẻ lầm lỗi biết trở về đường ngay nẻo chính bằng những hành động “đái tội lập công” cụ thể. Đó chính là con đường duy nhất để đảng Đảng Cộng sản Việt Nam có thể cứu nguy dân tộc đồng thời tự cứu lấy mình.
Với
thể chế dân chủ đích thực, chính quyền mới sẽ hành động tương tự chính
phủ Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến Nam Bắc phân tranh, hay như chính phủ Đức
sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất. Sẽ không có
những trại học tập cải tạo dã man và bỉ ổi như Đảng Cộng sản Việt Nam đã
làm đối với quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa. Những kẻ “đái tội lập công” sẽ được tha thứ và tôn vinh.
Một
mình đảng Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn 100% không thể cưỡng lại
được tham vọng bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán. Nhưng một khi quyền
điều hành đất nước được trao lại cho toàn dân, thì chắc chắn Trung Quốc
không thể làm gì được dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh điều đó.
Vậy
thì Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam hãy kịp thời quyết định sáng suốt để
cứu lấy mình và cứu cả dân tộc ! Nếu không, cả mình lẫn cả dân tộc sẽ
thật khốn nạn ! Hãy nhanh lên, đừng để quá muộn !
Houston, ngày 20/6/2014
Nguyễn Chính Kết
Nguyễn Chính Kết
Ghi chú :
[1]
Hiện nay, dư luận đang sôi sục lên vì nhiều bản tin liên quan đến mật
ước Thành Đô được ký kết trong một mật nghị giữa hai đảng cộng sản Trung
Quốc và Việt Nam tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên ngày 3-4/9/1990. Tin này đã
được nhiều người nhắc đến từ nhiều năm nay, nhưng chỉ mang tính cách là
một thông tin bị rò rỉ, không có gì xác đáng cả.
Nhưng
mới đây, Wikileak xác nhận rằng mật ước này là một trong 3100 bức điện
thư lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nội dung của mật ước này được cho
là đảng Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận Việt Nam sẽ trở thành một khu
tự trị của Trung Cộng tương tự như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng
Tây. Và thời điểm chót để hoàn thành mật ước này là năm 2020.
Chính
vì thế, ngay sau khi Mật Nghị Thành Đô kết thúc, ông Nguyễn Cơ Thạch,
bộ trưởng ngoại giao thời đó đã phải thốt lên : “Một thời kỳ Bắc thuộc
rất nguy hiểm đã bắt đầu”, và sau đó ông đã bị cách chức. Trong tập hồi
ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại
giao, cũng tiết lộ nhiều điều về mật nghị này.
[2] Xin xem bài “Đã đến lúc phải dứt khoát” của Trần Gia Phụng trên trang danlambaovn.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét