Boxitvn
Từ Quốc Hoài
Tác giả có thân sinh là
đảng viên cộng sản từ năm 1930. Bản thân là đảng viên đã nhận huy hiệu
30 tuổi Đảng. Từng qua thử thách chiến trường B, từng là Bí thư chi bộ
khu phố, được bình chọn là đảng viên xuất sắc tiêu biểu. Là hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải
thưởng Thơ 2010 của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Bauxite Việt Nam
|
Đất nước ta đang đối mặt với hiểm họa khôn lường.
Trung Quốc lộ mặt chủ nghĩa bành trướng, quyết liệt thôn tính lãnh thổ
Việt Nam. Trong nước ngổn ngang những thách thức: kinh tế suy thoái
nghiêm trọng; dân mất lòng tin; xã hội bất an, tội phạm tăng; Đảng và
Nhà nước bị ràng buộc bởi những tính toán tư lợi, bế tắc về mặt chiến lược, loay hoay với các giải pháp tình thế.
Để thoát khỏi hiểm họa đang làm chao đảo vận mệnh đất nước, chúng ta cần can đảm, quyết liệt tháo bỏ ách tắc, mà lâu nay vẫn được gọi là lỗi hệ thống.
Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ thuyết Marx –
Lenin, đổi tên từ Đảng Lao Động Việt Nam, từng lãnh đạo dân tộc ta giành
thắng lợi qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Chuyện đó ai cũng biết. Điều ít ai nói tới một cách khách quan, rành rẽ
là tại sao Đảng Lao Động Việt Nam thành công vẻ vang trong lãnh đạo
chiến tranh trước đây, nhưng khi đổi tên thành Đảng Cộng sản lại thất
bại thê thảm trong thời bình, vô hình trung tạo điều kiện cho Trung Quốc
thực thi chủ nghĩa bành trướng. Chắc chắn là chủ nghĩa Marx – Lenin có
vấn đề. Cái mà nhiều người vẫn gọi là lỗi hệ thống, chính là mặt trái của chủ nghĩa Marx – Lenin, khi Đảng cầm quyền mới bộc lộ, phát tác độc hại, trở thành đại họa. Nếu không nhìn ra mặt trái
của chủ nghĩa Marx – Lenin để xử lý nó một cách quyết liệt, thì dân tộc
Việt Nam sẽ đối mặt với nguy biến khôn lường. Cũng cần phải xem lại bản
chất Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Liệu còn có ích cho dân tộc Việt Nam
hay không?
Phần I
Mặt trái của chủ nghĩa Marx – Lenin
Ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản là Platon (427-347 trước công nguyên) ra đời trước K. Marx 2245 năm. Trong tác phẩm Cộng hòa, lần đầu tiên Platon đưa ra chủ thuyết về xã hội Cộng sản, một xã hội mà bản thể tư hữu của con người hoàn toàn bị xóa bỏ, mọi tài sản kể cả vợ chồng con cái đều thuộc về sở hữu công cộng. Chủ thuyết của Platon được cụ thể hóa trong cuốn tiểu thuyết giả tưởng Utopia
của nhà văn Thomas More (1478 – 1535 ). Chủ nghĩa Cộng sản của Platon
mang tính cực đoan và ảo tưởng vì con người không bao giờ chịu từ bỏ cái
bản thể tư hữu của mình, một hành vi đồng nghĩa với sự diệt vong.
K. Marx (1818 – 1883) tiếp thu ý tưởng về Chủ nghĩa Cộng sản của Platon, nhưng chỉ giới hạn ở việc xóa bỏ sự tư hữu về tư liệu sản xuất
vì cho rằng đấy là khâu then chốt đưa tới cảnh người bóc lột người.
Marx chủ trương giai cấp bị bóc lột dùng bạo lực cách mạng lật đổ trật
tự xã hội tư bản hiện hành, quốc hữu hóa toàn bộ tài sản của giai cấp tư
bản bao gồm tư liệu sản xuất và các tài sản do bóc lột lao động tạo ra,
thiết lập Nhà nước chuyên chính vô sản… Chủ nghĩa Marx mang lại cho
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức hào quang của một thiên
đường. Đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người, nền
kinh tế phát triển tột bậc, con người được tôn trọng, phát triển mọi
mặt, làm tùy sức hưởng theo nhu cầu. Không còn áp bức, chiến tranh… loài
người chung sống trong một thế giới đại đồng. Tác giả của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản khẳng định: Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì ngoài những xích xiềng trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản có tầm ảnh hưởng lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử loài người.
Dù sao thì xã hội Cộng sản do Chủ nghĩa Marx vẽ ra vẫn còn là một thế giới ảo. Nó là một giấc mơ đẹp, nhưng cần được minh định bằng một đời sống thực, con người có thể nhìn thấy được, chạm tay vào được.
V. Lênin (1870 -1924): người sáng lập Quốc tế Cộng sản 3, lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga giành thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản đầu tiên của loài người với tham vọng biến giấc mơ của Marx thành hiện thực. Sự ra đời của Liên bang Xô viết rộng lớn, trải dài từ Âu sang Á,
đã tạo ngã rẽ quan trọng của lịch sử loài người. Hơn 20 năm sau ngày ra
đời, Liên bang Xô viết trở thành một quốc gia hùng mạnh, cùng với các
nước đồng minh đánh bại Phát xít Đức, giải phóng châu Âu. Lá cờ búa liềm
– biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản – ngự trị trên hàng loạt các nước
Đông Âu. Năm 1949, bốn năm sau ngày chiến thắng Phát xít Đức, Đảng Cộng
sản Trung Quốc giành thắng lợi trong cuộc nội chiến, giải phóng lục địa
Trung Hoa. Sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa với gần một tỷ
dân thực sự đã chia thế giới làm hai phe: phe Cộng sản và phe Tư bản.
Một sự kiện đầy khích lệ diễn ra vào đầu những năm 80
của thế kỷ 20, đó là việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L. Brezhnev
tuyên bố Liên bang Xô viết hoàn thành công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa, và đang ở vào thời kỳ đầu của xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Liên Xô
trở thành miền đất hứa để loài người kỳ vọng. Những người lạc
quan đã nghĩ tới ngày ngọn cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản sẽ ngự trị
trên toàn thế giới, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản thối nát, giãy chết.
Nhưng chỉ 10 năm sau, cái thành trì của phe Cộng sản đã sụp đổ. Giới cầm quyền tại Liên Xô đối đầu
với nhau bằng họng súng đại bác. Liên bang Xô viết tan rã. Đảng Cộng
sản Liên Xô chịu chung số phận. Kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô là sự sụp đổ, tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu. Các nước Cộng sản châu Á như Trung Quốc, Việt Nam… mỗi nước mỗi
cách nhưng đều buộc phải bước ra khỏi lằn ranh của chủ nghĩa xã hội, khoác lên mình bộ trang phục mới của nền kinh tế thị trường để tồn tại.
Mặt trái của Chủ nghĩa Cộng sản
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và hệ thống xã hội
chủ nghĩa làm cho những ai quan tâm tới thời cuộc không thể không nghiêm
túc đặt câu hỏi: Phải chăng sự sụp đổ mang tầm thế giới kia có nguyên
nhân sâu xa từ mặt trái của chủ thuyết Marx-Lênin, vẫn được gọi là lỗi hệ thống?
Loài người từ khi xuất hiện trên trái đất luôn phải đối mặt với hai vấn đề: sinh tồn và bảo tồn nòi giống. Đấy là hai thành tố tạo nên bản thể tư hữu ở con người. Loại bỏ cái bản thể tư hữu ở con người cũng đồng nghĩa loại bỏ sự tồn tại của bản thân con người. Nhưng chính cái bản thể tư hữu lại làm cho xã hội loài người luôn bất an. Quá trình con người lao động để sinh tồn
luôn xảy ra sự phân cực. Một bộ phận thành đạt vượt trội, trở thành
những ông chủ quyền thế. Một bộ phận khác chịu số phận ngược lại, bần
cùng, cuộc sống bị lệ thuộc vào những ông chủ quyền thế. Sự phân cực
ngày càng nghiệt ngã, sự đối kháng càng gay gắt.
Yếu tố nhân đạo và cách mạng hướng về người lao động
bị bóc lột trong Chủ nghĩa Marx có sức quyến rũ, lôi cuốn hàng tỷ người
khắp thế giới tiến bước dưới ngọn cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản.
Nhưng đấy chỉ mới là một nửa chủ nghĩa Marx. Một nửa
còn lại khó nhận biết ngay, đó là sự ảo tưởng về một xã hội công bằng và
hiểm họa độc tài. Nhân danh công lý, Marx – Lenin chủ trương xóa bỏ của tư hữu
bằng cách quốc hữu hóa tài sản của giai cấp tư bản cùng lúc với việc
cướp chính quyền. Nhưng liệu đó có phải giải pháp công bằng? Thực chất
của việc quốc hữu hóa là tước đoạt tài sản của giai cấp tư bản, một hành
vi dẫn tới sự bất công mới. Giai cấp tư bản trả lương rẻ mạt cho công nhân, tạo ra sự chênh lệch giữa đồng lương người công nhân đáng được hưởng so với đồng lương rẻ mạt
mà họ buộc phải nhận. Nhưng sự chênh lệch đó không thể lớn bằng toàn bộ
tài sản của giai cấp tư bản tích tụ hàng trăm năm, bị chính quyền Cộng
sản tước đoạt. Ngay từ điểm xuất phát, cuộc tính sổ nhân danh giai cấp vô sản bị áp bức, đã diễn ra trong bạo lực đẫm máu, không sòng phẳng, là vết đen in lên cuộc cách mạng nhân danh công lý.
Khối tài sản khổng lồ: nhà máy, hầm mỏ, ngân hàng…
tước đoạt của giai cấp tư sản, và những xí nghiệp, tổng công ty, tập
đoàn kinh tế được mọc lên từ tiền thuế đẫm mồ hôi của người dân… được
chính quyền Cộng sản giao cho các đại diện ưu tú của giai cấp vô
sản quản lý. Những người này ban đầu có thể là những người lương thiện.
Nhưng khi có quyền lực trong tay, sự quyến rũ của đồng tiền đánh thức bản thể tư hữu trong họ, dần dà biến họ thành những tội đồ. Thánh Đường công hữu,
mở ra vô số cánh cửa từ phường xã tới trung ương, càng lên cao các cánh
cửa mở càng rộng, thậm chí vô giới hạn, dành cho các quan tham nhũng.
Lênin gọi đám quan vô lại này là “những ngôi sao trong nghề ăn cắp của công”. Nhưng chính Lênin cũng bất lực.
Chủ nghĩa Cộng sản bạo liệt xóa kiểu tư hữu này, nhưng lại tạo ra kiểu tư hữu khác, không chính danh, phát tác độc hại khủng khiếp. Các đảng viên cộng sản tràn đầy hy vọng khi hát bài Quốc tế ca, trong đó có câu “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”. Rốt cục “bao nhiêu lợi quyền” về tay các đảng viên, hay chỉ về tay những ai có chức có quyền, những nhóm lợi ích, lợi lộc bẩn thỉu tỷ lệ thuận với quyền chức. Nền chuyên chính vô sản khoác chiếc áo chính quyền của nhân dân, giữ độc quyền chân lý,
không chấp nhận sự phản biện, đối lập. Ai phê phán các sai trái của
quan chức trong bộ máy công quyền, hoặc đường lối không phù hợp với lợi
ích đất nước… bị khép vào tội lợi dụng quyền tự do dân chủ bôi xấu lãnh
đạo, hoặc chống lại chính quyền của nhân dân. Không cho phép tồn
tại các cơ quan lập pháp, tư pháp độc lập, không cho phép có đảng đối
lập, không được tự do báo chí, không có những quyền tự do được ghi trong
hiến pháp… quyết liệt chống lại mọi cơ chế kiểm soát quyền lực,
Đảng Cộng sản và Nhà nước chuyên chính độc quyền thử nghiệm số phận của
hàng tỷ con người. Cuộc thử nghiệm tai hại này đã thất bại trên phạm vi
toàn thế giới.
Những sự việc xảy ra tại Liên bang xô viết, một đất
nước xã hội chủ nghĩa điển hình, chứng minh sự sụp đổ của Nhà nước cộng
sản là tất yếu. Từ 1921-1953 có 4.060.306 người dân bị kết tội chống
Chính quyền Xô viết, trong đó có 2.634.397 người bị cầm tù, gần 800.000
người bị xử bắn. Chỉ riêng trong hai năm 1937-1938 là những năm có cuộc
đấu tranh quyết liệt về đường lối chính trị, số người bị bắn là 681.692
người. Bản thân N. Khrushev người lớn tiếng qui tội Stalin độc tài, khi
còn là Bí thư Matxcơva đã xin bắn 8.500 người. Việc xử bắn nhiều
khi là theo chỉ tiêu, không ghi danh tính người bị tử hình. Khi chỉ tiêu
được thông qua, bắn ai là do thủ lĩnh các địa phương quyết định. Những
con số trên đây là kết quả điều tra từ số liệu tại các kho lưu trữ của
Đảng và Nhà nước Xô viết do một nhóm công tác đặc biệt đứng đầu là tiến
sĩ sử học Viktor Nikolaevich Zemskov tiến hành.
Trong cuộc thăm dò không lâu trước khi Liên Xô sụp
đổ, với câu hỏi Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô viết đại diện cho
ai, 85% người được hỏi trả lời: Chế độ Xô viết chỉ đại diện cho lợi ích
các quan chức của Đảng và Nhà nước, 11% đại diện cho các đảng viên cộng
sản, 4% đại diện cho giai cấp công nhân. Sau khi Liên Xô sụp đổ, con số
thống kê cho thấy số người giàu của nước Nga chiếm trên 90% là các quan
chức của chế độ cộng sản. Nhà tài phiệt Khodorkovsky, ông chủ tập đoàn
dầu hỏa Yukos, một trong những người giàu nhất nước Nga với tài sản
khoảng 15 tỷ USD, bắt đầu sự nghiệp từ một đảng viên cộng sản. Khi Tổng
Bí thư Đảng Liên Xô Brezhnev tuyên bố Liên bang Xô viết đang bước vào
thời kỳ đầu của chủ nghĩa Cộng sản, cả con gái lẫn con rể là những đại
gia bị cáo buộc tham nhũng. Cái bóng quyền lực của Tổng Bí thư Brezhnev
đã đè lên luật pháp. Vụ án chìm xuồng.
Tại Việt Nam, sau gần 100 năm bị nô dịch bởi các thế
lực thực dân, phát xít, nền độc lập đã được tạo dựng từ cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng 8/1945, sau đó là chiến thắng vang đội trong cuộc kháng
chiến chống Pháp rồi chống Mỹ đã đưa uy tín của Đảng Lao động Việt Nam
lên tột đỉnh vinh quang.
Lẽ ra sau ngày toàn thắng, Tổ quốc được độc lập thống
nhất, Việt Nam bắt tay vào việc chấn hưng đất nước với một thể chế dân
chủ đã được Hồ Chí Minh đặt nền móng từ năm 1945, thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập, trong Chính phủ Đoàn kết dân tộc và Hiến pháp dân chủ 1946.
Nếu đi theo hướng đó, Việt Nam hôm nay đã là một đất nước cường thịnh,
Trung Quốc dẫu muốn bành trướng cũng khó bề bắt nạt. Vào thời khắc mang
tính quyết định đối với vận mệnh của đất nước, Nhà cầm quyền đã vội vã
làm cuộc chia tay với Dân tộc để đi vào cuộc phiêu lưu với rất nhiều
hiểm họa đang chờ. Đó là đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Việt Nam, đổi tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cuộc phiêu lưu thể chế đã làm xáo
trộn đến tận nơi sâu thẳm của tinh thần dân tộc. Nhà cầm quyền nhân danh
chủ nghĩa Cộng sản đã lấy đi lòng tin, niềm kiêu hãnh của những người
dân từng viết nên những trang sử oanh liệt của Dân tộc, đẩy họ trở lại
thân phận của những con người bị đè nén, bị điều khiển, tạo dựng một
cuộc sống đầy tai ách, một tương lai không phải dành cho mình mà cho
người khác. Trong cuộc sống đó Tham nhũng là gương mặt quen
thuộc, bắt gặp hầu như ở mọi cơ quan công quyền. Đảng độc quyền cùng với
chủ nghĩa xã hội là cơ chế sản sinh ra các quan tham nhũng.
Với việc giao quyền quyết định sở hữu nhà đất cho quận huyện, nhà cầm quyền Cộng sản đã tạo những nhóm lợi ích bẩn từ phường xã lên tới Trung ương. Đất đai trở thành mỏ vàng cho các quan tham đục khoét. Vô số kho báu
khác của đất nước được trao chìa khóa cho các quan chức, hoặc đám con
ông cháu cha. Hệ thống lập pháp và tư pháp hoạt động theo lệnh của Đảng
trở thành hậu phương an toàn của các quan tham. Những đại án phải ra trước vành móng ngựa là do phạm pháp quá lộ liễu hoặc mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích bẩn.
Bức tranh kinh tế ảm đạm, đen tối với dư nợ hàng triệu tỷ đồng, nợ xấu
hàng trăm nghìn tỷ, tham nhũng chục hàng nghìn tỷ, hàng trăm nghìn công
ty, tổng công ty phá sản… tạo sức ép ngộp thở lên đời sống người dân,
khung đạo đức của xã hội bị xô lệch, lòng tin ở Đảng, Nhà nước chỉ còn
được tô vẽ trên các khẩu hiệu…
Trách nhiệm thuộc về ai?
Đảng Cộng sản tự nhận mình là người lãnh đạo, tổ chức
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hiển nhiên việc đẩy nền kinh tế
của đất nước tới hiểm họa, tội phạm lộng hành, xã hội đảo điên… thuộc về
trách nhiệm của Đảng. Cụ thể là thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị và Tổng Bí thư Đảng, là địa chỉ xuất phát và nơi toàn quyền
quyền điều hành đường lối, chính sách của Đảng. Sự nhận lãnh trách nhiệm của các ông chủ Nhà đỏ,
cụ thể là Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, được coi là thiếu
tự trọng: không án phạt, không một hình thức kỷ luật, không một lời xin
lỗi dân, phủi tay trước sự đảo điên của đời sống đất nước do chính họ gây ra.
Với cái nhìn thật khách quan, tất sẽ nhận ra sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng như những độc tố đang khuynh đảo
vận mệnh của Đất Nước có gốc rễ từ lỗi hệ thống, là những mảng tối nằm trong mặt trái của chủ nghĩa Marx – Lenin.
Không thể xóa bỏ bản thể tư hữu, cái thuộc tính đem lại sự tồn tại của chính con người. Nhưng nó cần có cơ chế kiểm soát.
Một cây làm chẳng nên non!
Đấy là triết học của cha ông, chân lý tạo nên sức
mạnh để dân tộc ta tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm. Các nhà lãnh
đạo đất nước hôm nay cần nghiêm khắc nhớ tới chân lý này. Không có sức
mạnh của hàng triệu quần chúng yêu nước, không có các nước Đồng minh hy
sinh hàng chục triệu sinh mạng để chiến thắng chủ nghĩa Phát xít, một
mình Đảng Cộng sản liệu có làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945, giành
độc lập cho dân tộc? Trong cuộc trường kỳ kháng chiến suốt 30 năm, đánh
Pháp rồi đánh Mỹ, nếu không có sự hy sinh xương máu của hàng triệu đồng
bào, chiến sĩ, sự viện trợ, ủng hộ lớn lao loài người tiến bộ, liệu sự
nghiệp giành độc lập cho Tổ quốc có kết thúc thắng lợi vào năm 1975?
Một chân lý nữa cũng cần được làm sáng tỏ:
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Muốn bảo đảm sự bền vững và phát triển thì phải cần tới chân lý “ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Đây là di sản quí báu về triết học và tư tưởng của dân tộc ta, là chân lý mang tính phổ quát, có thể suy rộng ra để áp dụng trong đời sống của đất nước. Nó là tính đa nguyên mà dân tộc ta đã đúc kết qua hàng ngàn năm. Nhưng Đảng Cộng sản đã quyết liệt chống lại, coi đa nguyên là luận diệu của các thế lực thù địch…
Một Đảng tự nhận mình đại diện cho lợi ích của dân tộc nhưng hằn học
chống lại những giá trị tư tưởng, văn hóa… của dân tộc thì cần nghiêm
túc đặt câu hỏi: Thực chất Đảng Cộng sản hiện nay đại diện cho ai?
Hiện nay sức mạnh mà cuộc đấu tranh giành độc lập tạo
ra đã thay đổi. Liên Xô sụp đổ. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới cũng
thay đổi. Trung Quốc được coi là một trong những nước viện trợ lớn nhất
cho ta đánh Pháp và đánh Mỹ, tự lột mặt nạ hiện nguyên hình chủ nghĩa bá
quyền Đại Hán, coi Việt Nam là phên dậu của họ. Vào ngày
28.4.1975, khi quân Giải phóng sắp tiến vào Sài Gòn, nhà cầm quyền Trung
Quốc đã thông qua tướng tình báo Pháp Francois Vanussème nói thẳng với
Dương Văn Minh là Trung Quốc sẵn sàng can thiệp quân sự, chỉ cần Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa yêu cầu. Dương Văn Minh từ chối bằng câu trả lời
dứt khoát: “Ngày xưa đã bán đất cho Mỹ, nay lại còn bán đất cho Trung Cộng nữa à?” (xem bài Sài Gòn từng nhìn cuộc xâm chiếm Hoàng Sa thế nào?).
Những sự việc nhỡn tiền diễn ra ở biên giới
Tây Nam sau 1975, ở biên giới phía Bắc 1979, ở Biển Đông từ 1956 đến nay
hết xua quân chiếm các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tới
việc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD. 981 trên thềm lục địa
Việt Nam… càng phơi bày dã tâm bành trướng của Trung Quốc. Nhà cầm quyền
Trung Quốc đã từ bỏ chủ thuyết Marx – Lenin với lời tuyên bố của Đặng
Tiểu Bình: “Mèo trắng mèo đen đều tốt miễn là bắt được chuột”.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đi theo Chủ nghĩa dân tộc bành trướng Đại
Hán. Họ giữ lại hai chữ Cộng sản là để nắm sự độc quyền. Phương thức sản
xuất của Trung Quốc pha trộn giữa chủ nghĩa tư bản man khai và chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Sự độc quyền đã tước mất của dân tộc Trung Hoa nền dân chủ và tạo nên vô số phe nhóm lợi ích bẩn. Nhưng tập đoàn cầm quyền Trung Quốc có tham vọng bá chủ thế giới. Đó là động lực đen, thúc đẩy Trung Quốc phát triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam với những chính sách sai lầm
về kinh tế, cách hành xử chuyên quyền, và nhu nhược trước sự bành trướng
của Trung Quốc đang ngày một bị đẩy xa dân. Cùng tên gọi là Đảng Cộng
sản nhưng giữa hai Đảng cầm quyền Trung Quốc và Việt Nam không thể gọi
là chung ý thức hệ. Có chăng chỉ giống nhau ở sự độc tài. Khác
hẳn với Đảng cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay ngoài
những toan tính tư lợi không hề có khát vọng vì dân, vì nền độc lập của
Đất Nước, trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á hoặc châu Á. Nếu có đã
không xảy ra thực trạng đau lòng đang phơi bày.
Đi với dân để có sức mạnh của dân tộc thì phải thực thi một chế độ dân chủ thật sự, chế độ đó ngoài việc bảo đảm cho mỗi người dân quyền bình đẳng được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, còn phải có cơ chế kiểm soát yền lực,
đó là các quyền tự do báo chí, ngôn luận, tổ chức hội đoàn, đảng phái
cùngvới cơ chế Tam quyền phân lập đang được áp dụng có hiệu quả tại các
xã hội văn minh trên thế giới.
Dân chủ sẽ thực sự là thứ quyền lực trói chân trói tay các quan tham. Còn nếu cứ thực thi mô hình dân chủ hình thức, giả hiệu, nói một đằng làm một nẻo như hiện nay, khoác lên Đảng Cộng sản và Nhà nước những chiếc áo đẹp mã: “Đảng không có quyền lợi nào ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân”, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, thì dân vẫn ngoảnh mặt, trò ảo thuật đã bị lộ sáng, và vận mệnh cả Dân tộc tiếp tục bị chao đảo, nguy biến.
Để kết thúc phần nói về mặt trái của chủ nghĩa Marx – Lenin, chúng tôi xin lấy lại lời của F. Engels, người đồng chí của K. Marx, và là đồng tác giả của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (ra đời 1848). Như một di chúc, ba tháng trước khi từ trần, ngày 6.3.1895, trong lời nói đầu của cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp, F. Engels viết: “Lịch
sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan điểm của chúng tôi hồi đó
là ảo tưởng. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt…”.
Những điều chúng tôi trình bày trên đây là sự thật.
Sức mạnh của người cách mạng là dám nhìn thẳng vào sự thật.
T. Q. H.
Tác giả gửi BVN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét