Nguyễn Xuân Nghĩa (Danlambao)
– Tôi không còn nhớ năm 2008 bước sang 2009 cái Tết cổ truyền đến vào
ngày nào của Dương lịch, nhưng không khí tết thì nhớ rất rõ, bởi đó là
cái tết đầu tiên tôi “hưởng” ở trong tù. Trại tạm giam B 14 bộ công an
nằm trong địa phận xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Tp Hà Nội. Nói là xã,
huyện nhưng vùng này đang đô thị hóa rất nhanh và đã trở thành một quận
sau khi Hà Nội được mở rộng. Trại tạm giam bé nhỏ, khuôn viên lại chật
nên không khí sôi động của những ngày giáp Tết ngoài xã hội lọt vào các
xà lim qua âm thanh từ tiếng còi xe, tiếng người nói ngoài con đường
chạy qua nhà tù và thậm chí qua các khuôn mặt và cử chỉ của những viên
cai tù mà tôi tiếp xúc.
Tôi nhớ từ ngày 22 Âm lịch các vụ án đã được tạm ngừng điều tra xét
hỏi nên không còn tiếng cánh cửa sắt rít lên một cách thoảng thốt, đe
dọa khi mở cho nghi can đi “làm việc” (lấy cung), và đóng đánh “sầm” khi
nghi can trở về. Không còn lo lắng, thấp thỏm, và suy nghĩ để dự đoán
câu hỏi của lũ công an điều tra và câu đáp trả của mình nên tất cả tâm
trạng của tù nhân đều hướng về gia đình và cái Tết ngoài xã hội. Trại
tạm giam chỉ có một dãy nhà 3 tầng, mỗi tầng có 30 xà lim, chia làm hai
dãy lẻ và chẵn. Bên dưới, nối vào đầu hồi phải là dãy buồng giam một
tầng, giam những tù nhân đã thành án, cải tạo tốt sắp được tự do. Họ làm
công việc phục vụ cho tù chưa có án (chúng tôi) như nấu cơm, đun nước,
quét dọn, phát quà gia đình gửi đến và giúp cán bộ khám các buồng giam
tìm vật cấm. Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, của tờ Thanh niên, cây
bút hăng hái nhất trong làng báo viết về vụ PMU 18, sau khi thành án đã
chuyển xuống khu xà lim này trong 6 tháng, trước khi được tự do. Tôi vẫn
còn nhớ câu anh chào biệt tôi từ buồng giam 13, trước khi chuyển xuống
làm tù có án: “Anh Nghĩa ơi! Cố lên nhé!”
Lúc bấy giờ tôi đang bị giam ở xà lim số 17, trên tầng 2 cùng một
người đàn ông bằng tuổi, chủ một công ty TNHH “gia đình”; một loại công
ty tư nhân những năm đầu chính quyền cộng sản cho mở cửa nền kinh tế.
Công ty “gia đình” nghĩa là cái công ty có chồng làm giám đốc, vợ làm
phó giám đốc kiêm thủ quỹ, kế toán; con làm nhân viên kiêm bảo vệ hay
một chức danh gì đó đại loại. Ông này đang bị điều tra tội đưa người
trốn đi nước ngoài và luôn kêu với tôi rằng bị lừa, bị sập bẫy… Chuyện
là ông được mách có một thứ rượu vang bên Úc, một thương lái đã nhập về
Sài Gòn phục vụ cho tết, đang bán rất chạy, rất có lãi. Tin lời, ông ta
vội ký hợp đồng tuyển dụng với người môi giới, bỏ tiền làm hộ chiếu, xin
viza nhập cảnh cho người đó với tư cách là đại diện công ty tư nhân có
quan hệ thương mại quốc tế sau cái WTO. Sang đến nơi người đó trốn luôn.
Khi bị cảnh sát Úc bắt được, trục xuất trở lại Việt Nam, bị cảnh sát
Việt nam kết tội trốn ra nước ngoài trái phép, người đó khai ra “đường
dây đưa người trốn ra nước ngoài” mà ông là “giám đốc”.
Câu chuyện về vụ án của ông liên quan đến chuyến nhập rượu tết từ
Úc vào ngày giáp tết nên không gian trong xà lim phảng phất mùi rượu
vang. Bắt đầu từ ngày 20, 21 gì đó, câu chuyện về phi vụ nhập rượu vang
của ông kết thúc, hai gã tù già chúng tôi trở lại tâm trạng sầu não như
ngày mới vào tù.
Để giải khuây, những ngày cận kề cái tết đầu tiên buồn thảm ấy, tôi
thường đọc thơ của Huy Cận, Nguyễn Bính, rồi tôi chế biến bài “Xuân tha
hương” của Nguyễn Bính cho hợp với tâm trạng của tôi
Tết này chắc chắn không về được.
Anh gửi về em một tấm lòng
Ơi vợ một chồng, chồng một vợ
Đảng làm xa cách mấy con song.
Tôi đọc oang oang những câu đầu, đến câu “đảng làm xa cách mấy con
song” phải đọc nhỏ lại. Buồng liền kề giam hai phụ nữ. Họ lấy tay gõ vào
vách, yêu cầu:
- Đọc lại câu cuối chú Nghĩa ơi
- Ai làm xa cách mấy con song hả chú Nghĩa?
Không khí tết náo nhiệt hẳn lên từ các ngày 24, 25. Ngoài hành lang
rầm rập bước chân và tiếng gọi, tiếng nói của cán bộ và tù phục vụ,
mang quà tết của thân nhân tù đến các buồng giam. Tiếng giày cồm cộp là
của cán bộ, tiếng dép loẹt xoẹt là của tù. Hai chúng tôi thay nhau đứng
cạnh chiếc cửa sổ bé tí, nơi làm chỗ đút cơm và nhận quà để dự đoán cho
chính xác quà vào buồng nào? lấy thời gian đi qua và trở lại của cán bộ
và tù phát quà để biết người tù nào đó nhận nhiều quà hay ít. Khi tiếng
bước chân kia đi xa dần và không còn hy vọng nó trở lại, chúng tôi
thường nói với nhau: “Nhất định ngày mai mình sẽ có…”
Những ngày đó, người tù nào cũng được vui một lần. Sớm muộn cũng
chỉ một lần vui, nhưng vui sớm vẫn hơn vui muộn. Gia đình gửi quà sớm
giúp người bị tù giảm bớt được ngày chờ đợi, buồn bã và lo lắng. Vâng lo
lắng!. Tại sao lại lo lắng? Tâm trạng của người tù rất phức tạp, niềm
tin của họ không vững vàng. Người tù thường nghĩ quẩn trong đầu, nếu
chưa thấy quà vợ con gửi vào khi đã cận kề ngày tết “Vợ, con có ốm đau
gì không? Vợ mình có còn nghĩ đến mình nữa không nếu án mình dài? Những
câu hỏi này thường buột ra khỏi mồm dưới dạng một câu đùa. Một câu đùa
thực sự đau xót, não nề.
Tôi nhận quà tết của vợ cách ngày ông Táo lên trời đúng hai ngày.
Cũng như những người tù khác, khi nghe tiếng những bước chân dừng
lại trước cửa xà lim, đang nằm trên bệ xi măng, tôi đứng bật dậy. “Anh
Nghĩa, có quà!”. Tiếng viên cán bộ làm nhiệm vụ nhận và phát quà gọn
lỏn. Rồi những gói kẹo bánh, mứt, trái cây, đồ ăn, mì tôm từ bàn tay của
anh tù phục vụ được ném một cách vội vàng, vô lễ lên miếng tôn nhỏ tựa
hai quyển vở học sinh, khiến gói nằm nguyên gói rơi bịch xuống nền nhà,
tôi không thể nào nhặt lại kịp.
Vui nhiều, ức đến tận cổ cũng nhiều khi nhìn đống quà tết nằm ngổn ngang trên nền xi măng.
Tất cả các hộp, các bao gói đã không còn nguyên vẹn. Tất cả bị rạch
nát. Những chiếc kẹo, chiếc bánh bích-quy rơi vãi ra ngoài sàn, lẫn lộn
vào nhau, không còn biết chiếc nào xếp vào gói nào. Nhiều quả cam bị
dập nát do bị nắn bóp, khám xét. Một nửa số gói mì tôm bị bóc, miệng há
hoác, các sợi mì vung vãi trên sàn… Quà càng được gửi nhiều nỗi chán
chường và uất nghẹn càng lớn. Khúc giò bị cắt hai đầu hai nhát sâu đến
nửa chừng. Con gà luộc chín nhìn như một khúc thịt nham nhở, không rõ
đầu, rõ cánh, bụng bị rạch rộng thêm, bị nắn bóp, vật lên vật xuống tìm
vật gì đó bên trong. Hai cái bánh chưng nom tệ hại hơn cả. Cái nào cũng
bị cắt đôi. Nhát cắt do một con dao quá cùn và bẩn tạo ra những đường
cắt cẩu thả, lá gói bị đùn vào tận vùng có nhân và nhân bị kéo theo rơi
vãi ra ngoài sàn đất… Tôi đã nhìn thấy những anh tù kiểm tra lục soát đồ
ăn chín dùng tay trần, khi xong chùi tay vào vạt áo, khi một lần đi
cung trước đó.
Là một nhà văn hay suy nghĩ và liên tưởng, khi viết lại những dòng chữ này, tôi ứa nước mắt…
Tôi nhớ lại những cái tết cùng vợ con khi còn tự do. Từ một quả cam
kiếm được cho đến một cái bánh chưng gói được… vợ tôi đều nhẹ nhàng,
thận trọng đặt lên bàn thờ; những cử chỉ văn hóa ấy biểu hiện tấm lòng
thành kính đối với tổ tiên, ông bà… Một sự cung kính đến linh thiêng và
sang trọng đối với linh hồn người nhận vô hình từ người dâng hiến hữu
hình. Đầu sàn nằm của tôi sẽ là ban thờ. Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá…
Với hai cái bánh chưng, gói mứt, gói kẹo và vài quả cam, tôi sẽ đặt lên
“ban thờ” như vợ tôi ở nhà theo phong tục cổ truyền. Tôi cũng cầu mong
cho tai qua nạn khỏi, vững chí bền gan… Vậy mà những thứ tôi sẽ dâng
hiến đã bị làm nhàu nát, ô uế, đã bị ma vọc.
Đêm giao thừa, chính viên phó giám thị trại giam, người đã lệnh cho
cấp dưới khám xét đồ cúng của chúng tôi thật kỹ, đi chúc tết tù nhân và
mời mỗi người một điếu thuốc lá…
Cái tết tù đầu tiên của tôi là như vậy!
Sau 6 tết xa chồng, Tết năm nay vợ tôi đã mua một cành đào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét