Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

Những Ngã Rẽ (5)

Vietstudies

Hồi ký  Dương Văn Ba
Chương 4
LÀM BÁO SÀI GÒN
Phần 2
Tờ báo, công cụ đấu tranh chính trị

      - Với vai trò phó chủ bút thường trực mỗi ngày cùng làm việc với anh em từ đầu giờ cho đến lúc xong tất cả các trang, tôi là người phải ký bon cho máy chạy. Tôi duyệt các tin tức quan trọng, quyết định các tít lớn nhỏ, quyết định tin nào đi 8 cột, tin nào đi 5 cột, 4 cột…….2 cột, 1 cột.

– Chủ đề thời sự chinh trị thay đổi hàng ngày tùy theo tình hình chiến sự lúc đó, tùy theo nhiệt độ chính trị ở Quốc Hội, ở phủ Đầu Rồng (Dinh Độc Lập ) và tuỳ theo những diễn biến chinh trị ở Mỹ. Do đó luôn luôn phải có sự phối hợp tin tức trong ngoài, sự quan hệ giữa toà soạn với các giới thạo tin, với các trung tâm tin tức trong nước, ngoài nước. Điều hành một tờ báo lớn, mối quan hệ giao dịch phải rộng và làm sao lấy được nhiều luồng thông tin càng tốt.
Là một tờ báo đấu tranh chinh trị, mỗi ngày tôi phải viết một bản tin tổng hợp chính trị, có chủ đích, hướng dẫn dư luận theo chiều hướng mình muốn.
Để viết loại tin này, thứ nhất, tôi phải dựa vào các tin thời sự lớn về quân sự chính trị về các phong trào đấu tranh thành thị; thứ nhì phải suy xét xem hôm nay cần phải đánh vào mục tiêu nào; thứ ba phải xào nấu các nguồn tin cho hợp lý. Tin tổng hợp một phần dựa vào các nguồn thực tế, một phần dựa vào dư luận và một phần có tính cách kích động, vẽ vời, phóng lớn, làm nóng thời sự. Có khi tin tổng hợp được đưa lên “vedette”, có khi là một bản tin bình luận nằm phía dưới trang một, đi thành 3 cột hoặc 4 cột. Tên tác giả của các bản tin này thường là một bút danh hoặc ký dưới danh nghĩa nhóm phóng viên. Báo tranh đấu thường sử dụng tin tổng hợp làm vũ khí tiến công trong dư luận, đi trước dư luận hoặc hướng dẫn phân tách dư luận thời sự theo mục đích riêng.
Tôi nhớ lại giữa năm 1972 lúc chiến dịch tấn công các tỉnh miền Trung, các tỉnh vùng ven Sài Gòn của phía Việt Cộng đang hồi ác liệt, có lần tôi vào phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương (bây giờ là nhà văn hoá thiếu nhi Thành Phố Hồ Chí Minh) để nói chuyện chơi và cũng là để moi tin tức từ ông phụ tá của Phó Tổng Thống Hương. Ông Nguyễn Thạch Vân là học trò thân cận của thầy Trần Văn Hương. Dịp đó ông Nguyễn Thạch Vân có cho tôi biết tình hình chiến sự quanh Sài Gòn, ở các tỉnh Vùng III chiến thuật rất là bi đát “mỗi ngày Việt Cộng vây quanh Sài Gòn như vết dầu loang. Gọng kềm ngày càng siết chặt như cái thòng lọng. Việt Nam Cộng Hòa thua là cái chắc”.
Từ giữa năm 1972 người thân cận nhất với nhân vật số 2 của chế độ Sài Gòn đã nói với tôi rõ ràng như thế. Tin tức đó trở thành một đầu mối chỉ đạo hướng chiến đấu của báo Điện Tín, đang do tôi cầm cân nảy mực. “Sài Gòn đã hết thuốc chữa” từ dạo đó.
Tướng Dương Văn Minh lúc đó cũng đã về nước và không có ảo tưởng gì khác hơn “Sài Gòn sẽ thất thủ không chóng thì chầy” nếu Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ngồi ở ghế lãnh đạo miền Nam. Nhắc tới anh Nguyễn Thạch Vân, tôi cũng xin kể lại công của anh ấy đối với cá nhân tôi trong việc xin cho tôi được hoãn dịch sáu tháng từ tháng 6 năm 1972 đến tháng 12 năm 1972. Lúc ấy tôi sắp bị Thiệu ra lệnh bắt đi quân dịch sau khi thất cử dân biểu. Tôi có mò vào dinh Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho hoãn đi lính 1 hoặc 2 năm. Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân: “Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ Tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn đập ghế mạt sát. Lúc đó tôi nhớ mãi: Chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho Thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng nói Thầy xin cho Dương Văn Ba được hoản dịch 6 tháng đến 1 năm “.
Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoản dịch  đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm ký.
Giờ đây, thầy Trần Văn Hương đã chết. Anh Nguyễn Thạch Vân không biết đã chết hay còn sống ở nước ngoài. Tôi không quên ơn hai người đã giúp tôi khỏi phải đi lính, trong đời chưa phải cầm súng một giây phút nào để bắn lại đồng bào tôi. Nhờ đó tôi còn tránh được tai họa do em út của Nguyễn Văn Thiệu trả thù trong trại lính, tránh được roi đòn của anh em Hoàng Đức Ninh, Chuẩn tướng tỉnh trưởng Bạc Liêu, kẻ thù trực diện của tôi khi tôi làm dân biểu. Nhờ đó tôi vẫn được tiếp tục cầm ngòi bút chiến đấu chống chiến tranh cho tới lúc có hoà bình.

Kỷ niệm về một bản tin tổng hợp
Một lần nhào nặn tin tổng hợp để hướng dẫn dư luận tôi suýt mang họa vào thân vì bản tin tôi viết hôm đó gây bực mình cho Tướng Dương Văn Minh. Lúc đó vào khoảng gần cuối năm 1974. Dư luận chống chinh phủ Sài Gòn đang mong muốn có sự hợp tác, bắt tay giữa phái Phật Giáo Ấn Quang, do Thượng toạ Thích Trí Quang cầm đầu và phe chủ trương hoà bình của Tướng Dương Văn Minh.
Đối với Phật Giáo Ấn Quang, Tướng Dương Văn Minh có cảm tình nhưng rát dè dặt ít khi nào chịu lộ diện công khai hợp tác trước dư luận.
Ông Dương Văn Minh có nhiều tình cảm thân thiện với hoà thượng Thích Thiện Hoa nhưng rất giữ kẽ với Thượng tọa Thích Thiện Minh và Thượng tọa Thích Trí Quang.
Đối với quần chúng Phật Tử ở miền Nam Thượng tọa Trí Quang được coi như thần tượng một phần vì sự ít nói và lập trường cứng rắn của ông ta đối với Thiệu, một phần vì vẻ mặt lúc nào cũng trầm tư. Dư luận muốn có sự nối kết công khai giữa Tướng Minh và Thượng toạ Trí Quang để hình thành một liên minh vì hoà bình, gây áp lực với chính quyền Thiệu.
Ngày hôm đó trong cơn sốt nóng bỏng của thời sự tôi và anh em đầu não báo Điện Tín “phịa” ra nguồn tin về sự xích gần của liên minh Big Minh và Trí Quang. Tin tung ra ngầm cho dư luận hiểu là giữa hai phía đã có sự đi đêm.
Bản tin đã không được cảm tình của Tướng Minh, còn khiến ông ta nổi nóng. Ông Minh không phản ứng thẳng với tôi mà bày tỏ sự bực mình về bản tin đó với luật sư Vũ Văn Mẫu, bác sĩ Hồ Văn Minh, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, giáo sư Lý Chánh Trung (thời kỳ đó Thiệu đã ra lịnh bắt lính tôi. Tôi đã phải di tản vào ngụ tại văn phòng chính trị cuả Đại tướng Dương Văn Minh vừa để trốn lính, vừa để tiếp tục trực tiếp và thường xuyên điều hành toà soạn báo Điện Tín. Mỗi ngày cứ 6giờ 30 sáng, bộ phận chủ yếu của tòa soạn gồm có Trương Lộc, Minh Đỗ, hoạ sĩ Ớt vào làm việc với tôi tại văn phòng số 3 đường Trần Quí Cáp.  Đại tá Trương Minh Đẩu Chánh văn phòng của Tướng Minh, sắp xếp riêng cho chúng tôi một căn phòng lớn có tiện nghi đầy đủ để sửa soạn tin tức bài vở cho tờ báo. Một liên lạc viên được sử dụng dùng xe gắn máy –xe BC- chạy tới chạy lui giữa toà soạn và nhà in, vừa lấy các bản tin vừa đem bài vở đi sắp chữ. Liên lạc viên đó là NguyễnVăn Nhạn, em út của nhà thơ Cung Văn từ Đà Nẵng vào được tôi sử dụng tín cẩn và thân tình. Sau giải phóng Nguyễn Văn Nhạn chính thức vào nghề làm báo với tư cách phóng viên từ tháng 9-1975. Nhạn trở thành phóng viên Triệu Bình, khá năng nổ của báo Tin Sáng tập 2. Bây giờ trở thành biên tập viên của báo Sài gòn Giải Phóng. Một bước thăng tiến trong đời – từ vai trò giao liên đến vai trò ký giả – một chặng đường khó khăn, vất vã với nhiều biến cố ).
Tôi còn nhớ, hồi đó mỗi tuần vào chiều thứ ba và chiều thứ sáu tại văn phòng Tướng Minh thường xuyên có cuộc họp của Ban tham mưu chính trị
Hôm đó, vào chiều thứ ba, có Dương Minh Đức con trai của Tướng Minh ở Pháp về, tham dự. Dương Minh Đức đứng cản đường ở đầu cầu thang hàm ý không muốn cho tôi vào họp. Nhưng Luật sư Vũ Văn Mẫu, hiểu ý đã vội vã khéo léo kéo Dương Minh Đức tránh lối đi. Cuộc họp bắt đầu. Luật sư Mẫu nhắc chuyện bực mình của Tướng Minh đăng trên báo Điện Tín. Để xoa dịu, Giáo sư Lý Chánh Trung nói nhỏ với tôi “mày nên xin lỗi ổng đi” (tôi là học trò cũ của Thầy Trung ở Đại học Đà Lạt – môn Đạo Đức Học).
Tôi đã xin lỗi Đại Tướng Minh, sau khi nói rõ mục đích của bản tin: muốn kích động dư luận, gây phấn khởi cho quần chúng. Nhưng Tướng Minh chỉ nói một câu tiếng Pháp :” Je ne veux pas être compromis avec Trí Quang devant l’opinion publique” (Tôi không muốn bị công luận xem là có dính líu với Trí Quang). Mọi người cười giải hoà, Luật sư Mẫu tiếp tục ngay cuộc họp với dụng ý cho sự bực mình của Tướng Minh được tan mau.
Một sự kiện khác trong năm 1972 đã khiến báo Điện Tín của chúng tôi đi quá đà là việc khai thác tin tức về cái chết của sinh viên Nguyễn Thái Bình bị FBI Mỹ bắn chết trên máy bay của hãng hàng không Pan Am trên đường từ Mỹ về Sài Gòn, lúc sắp đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất.
Nguyễn Thái Bình là không tặc hay là người phản chiến yêu nước cướp máy bay để tạo dư luận khơi dậy lòng phẫn nộ đấu tranh của dân Sài Gòn chống Mỹ?
Bản tin của Hãng UPI đến tay chúng tôi vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó. Lập tức Trương Lộc phụ tá của tôi kích động “mình phải làm lớn vụ này”. Tôi đồng ý thổi phồng ngay thành xi căng đan yêu nước chống Mỹ. Đòn đánh đó của anh em chúng tôi thật thành công vì hôm đó phải phát hành thêm gần 10 ngàn số báo. Ngày hôm sau, chúng tôi cho viết bài ngay về lai lịch Nguyễn Thái Bình (phóng viên Nam Thái Sơn phụ trách viết) ca ngợi hết mực một học sinh giỏi được học bổng du học Mỹ, học xuất sắc, gốc gác nhà nghèo. Thế mà vẫn dám đấu tranh chống bạo quyền ngay tại đất Mỹ, tham gia phong trào phản chiến.
Chúng tôi chỉ mới nắm hiện tượng, vội vàng thêm mắm dậm muối ngay vào hiện tượng đó, để khuấy động phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Thực tế trong hồ sơ nhà báo, không có một tài liệu hay vết tích gì về lịch sử bản thân của Nguyễn Thái Bình.
Biệt tài “chế biến” làm sôi động chính trường vào thời đó là sở trường của tôi và Trương Lộc trong khi điều hành, dàn dựng tin tức thời sự hàng ngày. Báo Điện Tín trong tay chúng tôi đã trở thành một chuỗi bom xăng đặc hàng ngày thường xuyên được cho nổ trong dư luận độc giả.

Báo chí và các tài phiệt
Tháng 11-1971 Điện Tín chỉ mới in được 8 ngàn bản một ngày. Sang đến tháng 9-1972, nhật báo Điện Tín đã vượt lên con số 60 ngàn một ngày, vượt qua mặt luôn tờ báo đông độc giả Sài Gòn lúc bấy giờ là tờ nhật báo Sóng Thần, do nữ sĩ Trùng Dương, tác giả tiểu thuyết “mưa không ướt đất” làm chủ nhiệm, nhà văn Chu Tử làm chủ bút. Qua năm 1973, nhật báo Điện Tín mỗi ngày đã bán ra trên 85 ngàn số, mặc dù luôn luôn bị “TYĐB” (tự ý đục bỏ).
Bị Nha Báo chí thường xuyên TYĐB, nhưng nhật báo Điện Tín phần lớn vẫn phát hành nguyên con từ Quảng Trị đến Cà Mau. Đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Giải Phóng thường xuyên trích đọc tin và bài của báo Điện Tín hàng đêm. Tôi còn nhớ bài viết ký tên nghị sĩ Hồng Sơn Đông về ngày giỗ Tổ Hùng Vuơng mồng 10 tháng 3 (năm 1973) được đài phát thanh Hà Nội trích đọc ngay đêm hôm đó.
Hai nhà tài phiệt chủ thầu báo Điện Tín hưởng thật nhiều huê lợi do tờ báo mang lại là nghị sĩ Hồng Sơn Đông và tay trùm nhà in Nguyễn Văn Như (chủ nhà in Long Giang ở số 67 đường Lê Lai quận I).
Hồng Sơn Đông vừa là chủ nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I vừa là Nghị sĩ Quốc hội.
Ông ta làm chủ báo được 3 cái lợi :
– Thứ nhất: được danh tiếng là chủ tờ báo đối lập số 1 ở Sài Gòn.
– Thứ nhì: thực hiện được yêu cầu chính trị của nhóm Tướng Dương Văn Minh đề ra: Chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc giữa các thành phần Việt Nam với nhau.
– Thứ ba: hưởng được lợi ích tài chính hàng ngày khá lớn.
Tờ báo Điện Tín mỗi ngày bán ra 80 ngàn số, mỗi số 15 đồng. Báo in 8 trang với hơn 2 trang quảng cáo.
Tiền bán báo mỗi ngày thu được trên 1 triệu đồng, các mục quảng cáo mỗi ngày thu trên 200 ngàn đồng. Chi phí cho ban biên tập toàn bộ khoảng 200 ngàn đồng (kể cả tiền mua các bản tin và mua các tạp chí quốc tế làm tài liệu, mua ảnh thời sự). Tiền giấy, tiền công in, tiền trả thợ sắp chữ trên dưới 400 ngàn đồng. Mỗi ngày lợi nhuận thu vào của tờ Điện Tín trên 500 ngàn đồng. Lãi thu được hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Đô la năm 1972 – 1973 tương đương 250 đ/1 đô la. Lãi hàng tháng tính bằng ngoại tệ khoảng 80 ngàn đô la, trong khi đó lương hàng tháng của toàn bộ ban biên tập, thợ sắp chữ trên dưới 20 ngàn đô la. Bài toán trên giúp chúng ta thấy được nghề làm báo là một nghề đạt siêu lợi nhuận nếu tờ báo đó có trên 10 ngàn độc giả và có từ 1 đến 2 trang quảng cáo.
Báo Thời Đại Mới chỉ in mỗi ngày 8 ngàn số, chỉ có hơn 1 trang quảng cáo, thế mà vợ chồng anh Hai Nguyễn Kiên Giang, chủ báo, vẫn có một đời sống ung dung dư dả, chiều nào anh Nguyễn Kiên Giang vẫn nhậu lai rai  3 – 4 ly Martell soda, còn chị Hai tháng nào cũng có thêm hột xoàn.
Tôi nhớ rất rõ, nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I của anh Hồng Sơn Đông ban đầu chỉ có 4 máy in Typo cũ. Sau khi báo Điện Tín (bộ mới) do anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi làm chủ biên, chỉ trong 4 tháng anh Hồng Sơn Đông đã còm măn (commande) và đưa về 1 dàn máy in hiện đại Rotative offset 4 màu trị giá nửa triệu đô la (anh Hồng Sơn Đông lúc đó khoe cho tôi xem hoá đơn mua máy bằng ngoại tệ 500 ngàn đô). Ngay khi đó tôi thầm nghĩ tại sao Hồng Sơn Đông quá giàu; ban đêm về gác tay lên trán làm bài toán cộng trừ nhân chia mới thấy rõ ông chủ báo phát tài mạnh từ lúc Điện Tín vượt lên 40 ngàn số/ngày.
Làm chủ, nhất là làm chủ báo, thời đại nào cũng khỏe ru và còn được nhiều đặc quyền đặc lợi. Ở chế độ cũ, trong báo chí cũng chỉ có hai lớp người xa cách nhau rõ rệt. Lớp chủ báo và đầu nậu báo gồm ít người nhưng thụ hưởng trên 80% lợi nhuận. Còn lớp làm công, viết báo, biên tập viên, ký giả, thợ sắp chữ hưởng khoản 15% còn lại. Thợ lao động tay chân hay thợ lao động trí tuệ cũng xấp xỉ nhau. Thuyết Mác xít của Karl Marx và Lênin có khá nhiều điều không đúng trong thời hiện đại, nhưng đối với chủ và thợ, giữa tư bản và công nhân, quả là Karl Marx đã nói lên sự thật não nề, nhất là ở các nước đang phát triển. Người chủ hay giai cấp chủ nhân thường dựa vào tình trạng không có đầy đủ luật lệ hoặc luật lệ chưa rõ ràng hoặc dựa vào thế lực của các cấp chính quyền mà họ mua chuộc được, đồng thời dựa vào tình trạng người thất nghiệp đông đảo để luôn bóc lột những người đi làm thuê làm mướn. Chủ hưởng trăm lần, công nhân không được hưởng đến mười phần. Bóc lột trong báo chí ở chế độ cũ cũng không khác với quy luật trên. Thời trước có rất nhiều cai thầu báo chí. Một trong những cai thầu báo Điện Tín, báo Đại Dân Tộc là Nguyễn Văn Như, Nguyễn Văn Hiển, Tỷ Giấy.
Nguyễn Văn Như chủ nhà in Long Giang, chủ thầu in báo, bán báo Điện Tín, Đại Dân Tộc suốt bốn năm liền (có lúc thầu luôn báo Tin Sáng). Quyền lợi Như và Hiển được hưởng to lớn không kém gì các ông chủ báo thứ thiệt.
Cai thầu báo chí không cần dính líu tới nội dung tờ báo. Chỉ cần báo chống chính quyền càng mạnh, có càng nhiều quảng cáo, số phát hành càng cao, bàn càng đắt. Họ bóc lột sức lao động của công nhân, ký giả, ngay đến kỳ thưởng lương Tết, tháng thứ mười ba, họ cũng kèo nài bớt nửa tháng. Tình trạng này xảy ra cho báo Điện Tín Tết năm 1972-1973. Dù số lượng phát hành lớn, cai thầu Như, Hiển và chủ báo Hồng Sơn Đông cũng chỉ chịu trả thêm cho anh em nửa tháng lương. Tôi với tư cách chỉ huy toà soạn chịu trách nhiệm trước anh em phải đấu tranh kỳ kèo mãi. Thế mới biết đối với đa số chủ tư bản và cai thầu, cắt xén được tiền bạc của công nhân dù là công nhân trí thức, được thêm mớ nào để túi họ đầy thêm mớ nấy. Làm sao quên được dù cảnh đó đã xảy ra cách đây gần 30 năm rồi.
Ở những báo không có cai thầu vì chủ báo là tư sản có tiền trực tiếp đầu tư như báo Tia Sáng, Sài Gòn Mới, Trắng Đen, Thần Chung, tình trạng khai thác lợi nhuận, cắt xén bớt quyền lợi của công nhân, ký giả vẫn xảy ra. Ở các báo này tình hình thu nhập hàng tháng của những người viết lách cũng không sáng sủa hơn. Làm ký giả, phóng viên lãnh lương cũng chỉ đủ sống tàm tạm qua ngày nếu những người đó không biết kiếm thêm bằng cách chạy mánh.

Mánh báo chí
Có quá nhiều loại.
Viết báo bôi đen, gây xì căng đan để làm tiền. Nhiều cô ca sĩ, minh tinh màn bạc từng bị ngón đòn này.
Viết báo lăng xê gà cũng để làm tiền. Gà có nhiều loại. Diễn viên, kịch sĩ cũng có thể là gà. Thầy bói, thầy tướng số cũng mướn báo chí lăng xê. Thầy tu, thầy bùa cũng cần có báo nhắc đến tên mới có đông tín đồ, đông thiện nam nhất là đông tín nữ.
Dân biểu, nghị sĩ, Hội đồng Thành phố, Hội đồng Tỉnh cũng phải nuôi đàn em ở một vài toà báo phòng khi hữu sự.
Lăng xê các mưu đồ mua bán, lũng đoạn thị trường cũng có thể bỏ tiền ra nhờ báo chí làm giùm.
Quý vị độc giả có tuổi có thể nhớ lại chiến dịch nuôi chim cút khoảng năm 1965-1966. Một cặp chim cút mua từ Hồng Kông mang về phải trên 1 ngàn đô la. Gian thương Hồng Kông và Chợ Lớn đã hợp tác nhau mướn báo chí lăng xê chim cút biết đẻ ra trứng vàng làm cả Sài Gòn và một số tỉnh lớn ở miền Nam như Cần Thơ, Biên Hoà, Mỹ Tho ùn ùn đổ tiền ra đi mua chim cút về nuôi.
Chim cút ăn vào cường dương, hồi sinh, sung mãn. Trứng cút ăn nhiều trị được bịnh hen suyển, dị ứng kinh niên. Báo chí thời đó nhứt là báo Trắng Đen đã đi tiên phong và đưa phong trào nuôi chim cút lên ào ạt. Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân có máu buôn chợ đen, dân đầu cơ Sài Gòn, Chợ Lớn, đám đại xì thẩu Hồng Kông bắt đầu cho quả bóng chim cút xẹp xuống thật nhanh. Chỉ trong vài tuần lễ không còn ai mua chim cút với giá cao nữa. Biết bao gia đình đã điêu đứng vì cao trào chim cút. Lúc đó mới vỡ lẽ ra: có một bọn gian thương quốc tế mua chuộc báo chí để thổi phong trào lên mà hốt đô la.
Đám gian thương này dính líu với chủ các câu lạc bộ ăn chơi nổi tiếng của Sài Gòn, Chợ Lớn là Câu lạc bộ Xanh, Câu lạc bộ Tím, Câu lạc bộ Hồng, những nơi chiêu đãi nhất dạ đế vương các quan quyền cao cấp thời kỳ trước. Chính quyền cũ không màng đến các suy sụp, do đầu cơ trong tình hình kinh tế, nên không hề truy tìm nguyên nhân và thủ phạm.

Làm báo cũng có số mệnh …?!
Nhật báo Điện Tín bộ mới xuất bản liên tục từ tháng 11-1971 đến tháng 3-1975 (có lẽ vào ngày 20-3-1975) bị đóng cửa. Người ký tên rút giấy phép báo Điện Tín là Hoàng Đức Nhã em cùng mẹ khác cha với Nguyễn Văn Thiệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin Chiêu hồi.
Điều đáng buồn đối với riêng cá nhân tôi suốt đời 3 lần làm trụ cột 3 tớ báo khác nhau, từ năm 1965 đến năm 1975, cả 3 tờ báo đều bị chính quyền rút giấy phép xuất bản.
Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho từ 1965 đến 1966 bị ông Nguyễn Cao Kỳ buộc đình bản.
Tuần báo Đại Dân Tộc xuất bản tại Sài Gòn năm 1968 đến giữa năm 1969 bị ông Ngô Khắc Tỉnh cấm xuất bản.
Lần thứ ba, nhật báo Điện Tín bị đóng cửa cách ngày tàn của chế độ Thiệu sáu tuần lễ.
Nếu tin vào số mạng, phải kết luận số của tôi đen không làm được việc gì lớn mà vững bền. Điều này sẽ ứng nghiệm một lần nữa sau ngày giải phóng khi tôi làm hợp tác phát triển kinh tế với đất nước Lào. Bước đầu đang có nhiều thành công lớn, đang được chính phủ Lào trọng vọng, mới trong vòng 3 năm tôi trực tiếp bị ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam do hiểu lầm, do bị xúc xiểm tôi là đệ tử của một ông lớn khác, không điều tra rõ ràng đã ra lịnh bắt bỏ tù tôi. Chuyện dài này tôi sẽ xin kể lại ở phần thứ nhì của tập sách .
Đến nay trên 60 tuổi chiêm nghiệm lại cuộc đời nhiều khi phải nhìn nhận con người có số mệnh.
Như Ngô Công Đức ông ta có số mệnh làm việc gì cũng thành công.
Làm chủ báo Tin Sáng thời Nguyễn Văn Thiệu, phát tài lớn dù là báo đối lập, “nặng ký lô”, không một lần bị đóng cửa.
Qua thời kỳ giải phóng sau năm 1975, Ngô Công Đức được chính quyền cách mạng giao làm chủ nhiệm nhật báo Tin Sáng “tư nhân”, tiếp tục làm giàu cho đến khi Tin Sáng cáo chung vì hết vai trò sử dụng trong chế độ mới. Đến thời kỳ làm chủ hãng sơn mài, chủ hãng đồ gốm Ngô Công Đức vẫn được chính quyền giúp đỡ. Chính Ngô Công Đức thường rêu rao dân giàu nước mới mạnh trong khi một thời ông Đỗ Mười chủ trương nước giàu dân mạnh. Phải nhìn nhận Ngô Công Đức là một tay chính trị già dặn có nhiều khi đi trước thời cuộc, cái hay của ông ta là tạo được sự tin tưởng để chính quyền cách mạng giao cho tờ nhựt báo Tin Sáng tư nhân, tiếp tục hưởng lợi trong thời kỳ quá độ. Trong những lúc rượu say ngà ngà, Ngô Công Đức thường khoe về chiến thuật sống của ông ta: đó là chiến thuật “lắc”. Ông ta là chuyên viên lắc tới, lắc lui, vừa lắc vừa nhậu, lắc qua lắc lại để tìm cách đi tới, đi lên. Khi đụng phải vật cản, ông ta tạm dừng lắc hoặc tạm né qua một bên, sau đó tìm cách lắc tới. Chiến thuật “con lắc” tuyệt vời đem đến cho ông ta nhiều sự thành công.
Xin đóng ngoặc lại, tạm ngưng không nói về chuyện số mệnh nữa, để nhắc lại chuyện Điện Tín bị đóng cửa, có một kỷ niệm rất là “militant” (tranh đấu). Sau khi báo Điện Tín bị đóng cửa, tôi và anh Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu quyết định tiếp tục xuất bản nhật báo Điện Tín, Tin Sáng, in Ronéo phát hành hàng ngày. Bán rất chạy.
Trụ sở tòa soạn báo phát tay dưới dạng truyền đơn này vẫn là văn phòng của Tướng Dương Văn Minh tại số 3 đường Trần Quý Cáp. Chủ bút kiêm chủ nhiệm là Hồ Ngọc Nhuận. Dương Văn Ba vẫn là Phó chủ bút kiêm Tổng thư ký tòa soạn. Nhưng lần này chỉ có Dương Văn Ba một mình ngồi soạn tin soạn bài làm công việc của biên tập viên. Còn những cây bút bình luận chính trị có thêm Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu. Người đánh máy của nhật báo phát tay như truyền đơn là Trung sĩ Đỗ Tấn Phát, lính của Đại tá Trương Minh Đẩu. Trung sĩ Phát có biệt tài đánh máy 10 ngón tay và đánh rất nhanh. Mỗi ngày phải đánh máy tối thiểu 50 trang in ronéo. Công việc đó một mình Trung sĩ Phát làm, rất hăng say tận tụy.
Người quay ronéo, in báo là Dương Thị Nhung, còn hệ thống phát hành báo là chiếc xe LaDalat của Hồ Ngọc Nhuận, chiếc xe Toyota 800 cuả Kiều Mộng Thu cùng với các dân biểu đối lập. Mỗi ngày chúng tôi phát hành trên 5 ngàn tờ Điện Tín Tin Sáng in ronéo. Cuộc chiến đấu trên báo chí vẫn tiếp tục với quy mô nhỏ hơn tại Sài Gòn nhưng căng thẳng hơn và nguy hiểm hơn. Báo in ronéo vẫn bán chạy, vẫn thu được tiền. Các độc giả ở các chợ, các chùa, các Trung tâm Đại học vẫn đổ xô mua báo lậu. Báo in tay của chúng tôi phát hành đến ngày 26-4-1975 mới đình bản. Lý do: ngày 27-4-1975, Tướng Dương Văn Minh được Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa giao quyền Tổng Thống. Tôi, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt), Trương Lộc và Nguyễn Ngọc Thạch chuẩn bị cho tờ Điện Tín (Lớn) tái xuất giang hồ vào ngày 28-4-1975.
Số báo Điện Tín bộ thứ 3 in 4 trang ra mắt độc giả ngày 29-4-1975 đặt tòa soạn tại nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I, phát hành 10 ngàn tờ.
Dương Văn Ba, Trương Lộc, Huỳnh Bá Thành, Minh Đỗ, Nguyễn Ngoc Thạch vẫn tiếp tục điều khiển tờ báo. Nhớ lại ngày đó Sài Gòn tán loạn, tan tác như đàn vịt vỡ bầy, ùn ùn đua nhau tìm cách di tản. Thế mà chúng tôi vẫn tiếp tục săn tin viết báo, in báo và phát hành báo.
Nhật báo Điện Tín bộ thứ 3 chỉ có 1 ngày tuổi. Đến bây giờ không biết tìm đâu ra ấn bản hi hữu đó. Trong tủ sách riêng của gia đình Huỳnh Bá Thành, bà Nguyễn Thị Ninh, vợ anh Thành, có giữ được một vết tích nào không?
Sáng hôm sau, ngày 30-4-1975 Sài Gòn vang dậy tiếng súng và cờ đỏ đã tràn ngập phố phường. Báo Điện Tín, tờ báo cuối cùng của chúng tôi khai tử vào ngày đó. Đó cũng là ngày cáo chung vĩnh viễn của làng báo tự do tư sản ở miền Nam Việt Nam (29-4-1975).

Kỷ niệm của hai ký giả với Cảnh sát Đô thành
Tôi xin kể thêm 2 kỷ niệm nhỏ nhưng cũng khá vui trong đời làm báo Điện Tín của tôi, Trương Lộc và Huỳnh Bá Thành.
Kỷ niệm đầu, vào năm 1972 khoảng giữa tháng 3. Lúc đó, nhà tôi ở trong đường Nguyễn Tri Phương quận 10, gần nhà Trương Lộc (dân biểu Lý Quý Chung cũng ở kế cận). Sáng sớm mỗi ngày, khoảng 6 giờ, Trương Lộc chạy chiếc xe Lambretta cũ, đèo tôi đi từ đường Nguyễn Tri Phương ra đường Võ Tánh. Một buổi sáng, chúng tôi chạy đến gần trường Nguyễn Bá Tòng, bị 2 quân cảnh chận lại xét giấy tờ. Tôi trình thẻ dân biểu (lúc đó tôi vẫn còn giữ). Trương Lộc bị quân cảnh hỏi giấy hoãn dịch, mặt mày tái mét. Anh đang trốn quân dịch. Hai lính quân cảnh đòi bắt Trương Lộc. Tôi điều đình “chung” cho họ 100 ngàn đồng (bằng 2,5 lạng vàng ), lính quân cảnh đồng ý. Tôi để Trương Lộc đứng đó chờ, vội vã chạy đến nhà Nguyễn Văn Như, thầu báo Điện Tín, mượn tiền. Nhà Nguyễn Văn Như ở đường Lê Lai, gần đó. Sau 15 phút tôi quay lại lãnh Trương Lộc đi. Khi chung tiền xong, hai anh em, lên xe Lambretta, dông thẳng.
Bây giờ, chắc Trương Lộc chưa quên chuyện đó dù ông ta đang rất giàu và cũng là một nhân vật có máu mặt thời nay.
Chuyên thứ 2 liên quan đến Huỳnh Bá Thành, về sự dũng cảm của anh ta.
Mỗi buổi trưa khoảng 12 giờ 30, sau khi báo lên khuôn, máy in bắt đầu chạy, anh em đầu não của toà soạn Điện Tín thường rủ nhau đi ăn cơm ở đường Lê Lai. Thời gian đó tôi có chiếc xe hơi Datsun màu trắng 1.500 (xe mang biển số X nhưng tôi cho đổi bảng số thường, đổi lậu). Xe này thỉnh thoảng dân biểu Hồ Ngọc Nhuận hay lấy sử dụng (không biết ông ta đi đâu, có khi là đi liên lạc với Việt Cộng, Hồ Ngọc Nhuận thường hay bị công an chìm theo dõi, cho nên xe tôi cũng bị theo dõi mà không hay).
Trưa hôm đó, khoảng 13 giờ 30 tôi, Trương Lộc, hoạ sĩ Ớt đi ăn cơm về đến nửa đường Lê Lai, bên hông ga xe lửa. Một đám công an áo vàng, áo thường phục chận xe lại xét. Ớt thắng xe lại và nói “anh Ba, anh Lộc vọt đi để tôi đối phó”.
Lộc vọt nhanh nhất vào hẻm (vì đang trốn quân dịch). Tôi cũng vọt theo vì xe mình không có giấy tờ hợp lệ (biển số lậu). Huỳnh Bá Thành ở lại bị bắt về bót quận Nhì, giam mất hai ngày.
Cũng may Trưởng ty cảnh sát quận Nhì là Trung tá Phan Trung Chánh, bạn của tôi. Lúc đó hồ sơ của tôi trong công an cũng đã bị ghim đen. Buổi tối, hai lần liên tục, tôi phải đến nhà riêng của Phan Trung Chánh năn nỉ vợ anh ta nói giùm để thả hoạ sĩ Ớt ra (Trung Tá Chánh không dám tiếp tôi ban ngày, ngại bị Trang Sĩ Tấn – Giám đốc Cảnh sát Sài Gòn phát hiện).
Huỳnh Bá Thành vì bạn, vì tờ báo phải ở tù 2 ngày, bị muỗi cắn, mà vợ ở nhà không hay biết tưởng là anh ta đi làm việc như thường lệ.
Sau giải phóng tôi mới biết Huỳnh Bá Thành là công an cộng sản. Lần ở tù đó anh Thành bị cấp trên trong bí mật khiển trách vì tật dám phiêu lưu, không sợ lở hư việc lớn. Tưởng cũng nên nói thêm chiếc xe hơi của tôi bị Trang Sĩ Tấn ra lệnh tịch thu vì trên xe chứa toàn phim ảnh biểu tình xuống đường của các sư cô và của sinh viên (đó là tài liệu của Hồ Ngọc Nhuận) và vì xe mang biển số lậu.

Vài dòng về mục ký sự nhân vật trong báo Điện Tín
Trong đoạn trên, nhân nhắc lại những kỷ niệm với anh Huỳnh Bá Thành (tức Hoạ sĩ Ớt), một người đã có quá nhiều kỷ niệm với tôi thời kỳ làm báo Điện Tín từ năm 1972 đến 30-4-1975, tôi xin được phép nói rõ thêm một vài chuyện liên quan đến anh Thành:
– Anh Huỳnh Bá Thành một con người tài hoa, đầy nhiệt huyết: một nghề tay trái nhưng rất giỏi của anh Thành có thể nhiều người chưa biết đến, đó là nghề tạc tranh truyền thần, chân dung trên đá cẩm thạch. Huỳnh Bá Thành quê ở Đà Nẵng, lúc nhỏ anh có học nghề tạc tranh trên đá ở Non Nước. Nét tạc của anh rất điêu luyện, duyên dáng và rất có thần. Để tạc một bức chân dung, anh sử dụng không quá 3 giờ đồng hồ. Chính mắt tôi đã thấy tài tạc tranh của anh cho nhiều người. Ai nhận được bức tranh anh tặng, thật là một điều hạnh phúc. Khi cha tôi mất năm 1981, anh Thành có tạc một bức chân dung của cha tôi để kỷ niệm. Sau này nghe nói anh có tặng cho ông Đinh Đức Thiện và ông Mai Chí Thọ mỗi người một tác phẩm truyền thần của anh.
– Huỳnh Bá Thành tức Hoạ sĩ Ớt, người vẽ hí họa nhân vật rất sắc nét và được độc giả miền Nam mến mộ thời kỳ 1972-1975. Những bức tranh châm biếm của hoạ sĩ Ớt về Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hương, Kissinger, Nixon… là những tác phẩm nghệ thuật trào phúng chính trị để đời. Tưởng nên làm một cuộc sưu tập tất cả các tranh trào phúng ở trang nhất của báo Điện Tín từ tháng 12-1971 đến hết tháng 3-1975, chúng ta sẽ có một kho tàng tài liệu hí họa chính trị quí báu. Điều đáng nói là hoạ sĩ Ớt vẽ tranh trào phúng rất nhanh. Thường thường mỗi buổi sáng khoảng 8 giờ 30 đến 9 giờ, anh Ớt hội ý với tôi và Truơng Lộc về đề tài cần vẽ cho ngày hôm đó. Sau khi nghe hai chúng tôi góp ý, Ớt quyết định phát thảo những đường nét tiêu biểu. Chỉ sau 20 phút, báo Điện Tín chúng tôi đã có một bức tranh châm biếm, đủ sức hấp dẫn dư luận độc giả ngày hôm đó. Ớt vẽ rất nhanh, nhưng chiều sâu ý tưởng châm biếm của anh rất tiềm tàng, mỗi người có thể khám phá một nét duyên dáng riêng qua tranh của anh.
– Cũng trong thời kỳ Ớt vẽ tranh biếm họa cho trang 1, ở trang 4 của báo Điện Tín có mục “ký sự nhân vật”. Mục này do tác giả Trần Văn Lê phụ trách. Trần Văn Lê là bút danh của Trần Trọng Thức thời kỳ làm báo Điện Tín. Các bài viết về các nhân vật chính trị, văn hoá, thời sự của Trần Văn Lê đăng trên báo Điện Tín thu hút khá đông độc giả. Ngòi bút của Trần Văn Lê khá duyên dáng gợi cảm, phân tích những đặc điểm của nhân vật khá lý thú, cho nên mục ký sự nhân vật cũng là một thế mạnh của báo Điện Tín, thời kỳ tôi phụ trách. Nhưng mục “ký sự nhân vật” có tiếng vang tốt chỉ đem lại cái hại cho Trung Uý Hải Quân Trần Trọng Thức (lúc đó Thức đã bị động viên vào Hải quân). Bộ Tư lệnh Hải Quân Sài Gòn doạ kỷ luật Thức nếu anh không bỏ nghề viết ở báo Điện Tín. Để tránh bị trù dập, Thức phải bỏ ngang mục “ký sự nhân vật”. Thời kỳ đó, tôi với tư cách Phó chủ bút thường trực phải tiếp tục viết thay cho Trần Văn Lê và ký tên “người giấu tên”. Để mục “ký sự nhân vật” có thêm sức sống, hấp dẫn, tôi bàn với họa sĩ Ớt, cứ mỗi nhân vật, phát thảo một chân dung dựa vào các bức ảnh có được và dựa vào nét hài hước chủ yếu trong cuộc đời của đương sự. Thế là, từ đầu năm 1973, mục “ký sự nhân vật” giai đoạn II do tôi viết thế cho Trần Trọng Thức, có kèm theo hí hoạ của Ớt. Mục này tồn tại cho đến thời kỳ báo Điện Tín bị đóng cửa vào cuối tháng 3-1975.
– Vào năm 2002, nhà xuất bản Trẻ của TPHCM có sưu tập các bức ký họa của Ớt trong Mục ký sự nhân vật của báo Điện Tín, in thành một tác phẩm rất dầy và đẹp.
Anh Hồ Ngọc Nhuận, nguyên chủ bút báo Điện Tín thời kỳ 1971 – 1975, biết rõ có sự nhầm lẫn về quyền tác giả trong cuốn sách ký sự nhân vật đó. Tác giã các bức tranh là Ớt, còn tác giã các bài viết là tôi – Dương Văn Ba. Anh Nhuận có gửi thư cho nhà xuất bản Trẻ, cho anh Trần Tử Văn, báo Công An TPHCM, anh Lý Tiến Dũng – báo Phụ Nữ TPHCM, chị Nguyễn Thị Ninh- vợ anh Ớt, để nói rõ về sự nhầm lẫn nầy. Tôi cũng xác nhận những bài viết là của tôi, thời kỳ tôi thay thế Trần Trọng Thức. Còn những bức vẽ độc đáo là của Ớt – tự những bức vẽ đó đã nói lên chân tài của một nghệ sĩ quá cố.

Báo chí mạnh hơn các quân đoàn
Trong đấu tranh cách mạng, báo chí là một mặt trận, đôi khi quan trọng hơn cả chiến trường quân sự.
– Báo chí tung tin, tạo dư luận, hướng dẫn dư luận.
– Báo chí tung hỏa mù, soi sáng hỏa mù
– Báo chí là những họng súng có sức công phá lớn hơn các loại đạn pháo, bom chùm hay bom bi. Báo đánh thẳng vào cân não kẻ địch, gây hoang mang, làm lụn bại tinh thần đối phương.
Một tờ báo có nhiều độc giả mạnh hơn một quân đoàn. Báo đánh vào chiều sâu chiều rộng, đánh vào đầu, vào sâu thẩm trái tim kẻ thù.
Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trong 10 năm cầm quyền không thấy hết sự nguy hiểm thâm sâu của báo chí. Theo đường lối dân chủ tư sản, chính quyền Thiệu buộc phải tạo ra bề ngoài có tự do báo chí.
Chính vì không lường hết sự thâm sâu của sức mạnh báo chí, một phần nguyên nhân gần khiến Thiệu phải thua và phải lưu vong.
Hầu như trong bất cứ tờ báo nào ở Sài Gòn cũ từ 1965 đến 1975 cũng đều có cán bộ cộng sản hoặc người thân cộng giả danh nằm vùng. Báo Công Luận của Tướng Tôn Thất Đính từng có Lê Hiền tức Cao Minh Hựu là cán bộ địch vận của Việt Cộng. Có thời gian Lê Hiền trở thành chủ nhiệm báo Bút Thép. Báo bề ngoài có vẻ thương mại là báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Bà Bút Trà cũng có người thân là Việt Cộng.
Báo Tin Sáng do Ngô Công Đức làm chủ nhiệm, Ngô Công Đức cũng đã đi theo Việt Cộng (theo tới cùng hay theo nửa chừng hoặc bên trong còn bọc lót áo màu gì chưa biết). Riêng Hồ Ngọc Nhuận đã được móc nối tại Paris bởi Đại Sứ Phạm Văn Ba và Đại Sứ Nguyễn Văn Tiến trong năm 1968.
Báo Điện Tín do Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm, nhưng Trương Lộc thư ký toà soạn hoạt động thân cộng sản trước năm 1968. Giám đốc trình bày, hoạ sĩ Ớt là sĩ quan công an (năm 1975 đeo lon đại úy). Nguyễn Đình Phúc, trợ lý về montage của Ớt, đeo lon trung úy công an. Nhiều báo khác nữa như báo Trắng Đen, Đông Phương, Bút Thần, Tia Sáng kể cả báo Tự Do của cha Nguyễn Quang Lãm, cũng có người thân cộng sản được cài vào.
Cán bộ cộng sản nằm trong ban biên tập, nằm trong hệ phóng viên hoặc nằm trong nhà in, trong thợ sắp chữ. Xếp typo của báo Điện Tín, giải phóng xong mới biết là Việt Cộng nằm vùng.
Cũng như cố vấn của Tổng thống Thiệu, Huỳnh Văn Trọng hay Vũ Ngọc Nhạ, là nhân viên tình báo cao cấp của cộng sản. Đầu bếp của Tướng Dương Văn Minh, mỗi ngày nấu ăn cho vợ con ông ta, là anh Năm quê ở Mỹ Tho, sau giải phóng mới biết là người do cộng sản cài đặt từ lâu.
Báo chí Sài Gòn bị màng lưới tình báo cộng sản vây chặt dưới nhiều hình thức, đóng nhiều vai trò qua nhiều thời kỳ liên tục. Kể cả ông Phạm Xuân Ẩn, một tay làm báo có cỡ của tờ Time, là nhân viên tình báo chiến lược của Trung Ương Cục. Nhìn bề ngoài, ông Phạm Xuân Ẩn giống như tay chơi, nuôi chó bẹcgiê, nhậu whisky Mỹ liên tục, ngày nào cũng có mặt ở quán Givral đường Bonard trước cửa Hạ nghị viện.
Nguyễn Văn Thiệu đã thua ngay trong những lúc ông ta tưởng là mình mạnh nhất, thời kỳ độc diễn 1971-1972. Thiệu không có đạo quân vô hình, Mỹ cũng không có đạo quân vô hình. Ngược lại họ còn bị cô lập, bôi đen, bắn lén từ tứ phía bởi đạo quân ma, quân chữ viết in trên giấy, trăm đầu trăm tay không biết đánh lúc nào, không biết bắn từ đâu mà chỉ thấy mỗi chữ như một viên đạn, bắn từ nhiều nơi, không biết đường đâu mà đỡ.
Nhà thơ Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam, các thư ký tòa soạn, Sơn Tùng, Minh Đỗ những người này từng là cán bộ kháng chiến luôn hoạt động có lợi cho cộng sản kiểu này hay kiểu khác.
Những ông chủ báo, những ông chủ thầu, đâu có khi nào sống một ngày 24 giờ với tờ báo của mình. Chính các lực lượng ngầm bên trong các toà soạn điều khiển trực tiếp hay gián tiếp, xa hay gần đội quân ma trong báo chí. Báo Sài Gòn vô tình trở thành công cụ tuyên truyền và đấu tranh trong chiều hướng có lợi cho cộng sản. Các cuộc xuống đường biểu tình của phong trào báo chí, ký giả đi ăn mày, được tổ chức bởi những nhà báo nổi tiếng như Nguyễn Kiên Giang, Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung. Nhưng bên trong và đàng sau của những cuộc xuống đường rầm rộ đó, sau thời kỳ luật báo chí 007 được ban hành, hầu như đều có mặt của những người mặc áo lót đỏ.

Cuộc chiến đấu nhiều mặt
Chế độ cũ giới hạn quyền tự do báo chí bằng việc ràng buộc ai muốn xin ra báo phải đóng ký quỹ 100 triệu đồng (tương đương 300 cây vàng). Thực tế luật ký quỹ chỉ cản trở được nhà báo nghèo như Lý Quí Chung (Lý Quí Chung hết làm chủ báo từ sau luật 007). Còn 100 triệu hay một hoặc vài tỷ bạc, những người hoạt động nội thành của cộng sản khi nào cần là có ngay. Cuộc chiến đấu ở thành thị muôn mặt. Sử dụng đồng tiền để ngăn chặn cộng sản hoạt động, chế độ Thiệu với anh thanh niên playboy Hoàng Đức Nhã làm Tổng trưởng Thông tin chiêu hồi, đã phạm sai lầm lớn.
Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những nhà tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ và Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ nhất là tài trợ quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi có lúc đã chứng kiến 2 nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không. Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận.
Những người hoạt động nội thành của cộng sản sử dụng đồng tiền để tăng thêm thế mạnh áp đảo của súng đạn, tăng thêm sức mạnh ngấm ngầm nhưng dữ dội của đạo quân ma trong làng báo thành thị. Sau ngày giải phóng mới rõ ra Lữ Minh Châu – Giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn ở Cần Thơ là cán bộ cao cấp của cộng sản. Ông Lữ Minh Châu đã sử dụng xe của ngân hàng Cần Thơ chở tiền đồng và đô la Mỹ đi phân phối cho các tổ kinh tài tại Sài Gòn và các tỉnh. Lữ Minh Châu, gốc người Cà Mau tham gia kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Hai năm sau (1956) ông được gởi đi Liên Xô du học. Từ Liên Xô ông được đánh vòng qua Pháp học về ngành tài chinh ngân hàng. Từ Pháp, ông được đưa về Nam Vang với tư cách Việt kiều Cam Bốt, giàu có. Ông ta có dáng vẻ thư sinh, nho nhã, trắng trẻo còn hơn nhiều người nhà giàu Sài Gòn chính cống. Trong cái vỏ bọc đó, rất giàu sang, từ Nam Vang, ông Lữ Minh Châu được đưa về Cần Thơ tham gia hoạt động ngân hàng. Ông trở thành giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn có hùn vốn lớn với mấy ông “đại xì thẩu” ở Tây Đô. Chính đó là môi trường thuận lợi, hợp pháp để ông Lữ Minh Châu dùng tiền tài trợ cho không biết bao nhiêu hoạt vụ.
Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.
Ba mũi giáp công… năm mặt bao vây… báo chí Sài Gòn là một mặt trận lớn. Người điều binh khiển tướng là Khổng Minh Cộng Sản, chớ không phải các cố vấn Mỹ hay anh công tử bột, cao bồi Hoàng Đức Nhã.
Xin các bạn chịu khó tìm lại đọc các bản tin chiến sự từ giữa năm 1973 cho đến đầu năm 1975 trên hầu hết các báo Sài Gòn.
Soi rọi lại các dòng tít lớn mỗi ngày trên các nhật báo thời đó, con ma trốn trong bóng đêm cũng phải thấy rằng Việt cộng sẽ thắng, Việt Nam Cộng Hòa sẽ thua.
– Hàng rào điện tử McNamara đã bị vô hiệu
– Quảng Trị đã thất thủ
– Huế bị bao vây, đêm là việt cộng, ngày là chính quyền
– Việt cộng sắp đánh Pleiku.
– Ban Mê thuột thất thủ
– Tây nguyên hoảng loạn
– VNCH chỉ còn giữ được từ Phan Thiết trở vào
– Việt cộng đã về tới và bao vây Long Khánh
– Mỹ dội bom 7 tấn cản đà tiến quân Bắc Việt
Trước những dòng tít đại loại như thế liên tục từ ngày này qua ngày khác, chỉ có trái tim bằng đất và cái đầu bằng thép mới có thể giữ được sự thản nhiên. Dân chúng Sài Gòn và dân chúng miền Nam làm sao không bị hoảng loạn. Tướng tá chạy trước, sĩ quan cấp úy chạy sau, binh lính rã ngũ… cảnh đó tất nhiên phải đến, nhất là khi từ Đà Nẵng, từ Quảng Ngãi, từ Phan Rang, từ Biên hòa… lần lượt máy bay quân sự của Mỹ đã di tản cơ giới và binh lính của họ lần lần về nước trước cuối năm 1974.

Nhiều đàn bà đẹp Việt Nam đã được đưa di tản từ 1973…
Tưởng cũng nên nhắc lại phong trào lính Mỹ, các nhân viên dân sự Mỹ, các cố vấn Mỹ ở khắp miền Nam Việt Nam từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế cho đến Cà Mau, Bạc Liêu, đâu đâu họ cũng tìm lấy vợ Việt Nam, và họ đã đưa vô số những cô gái trẻ đẹp từ nông thôn đến thành thị ồ ạt đi về Mỹ từ đầu năm 1973. Tôi đã chứng kiến thường xuyên sự kiện này trong vòng 2 năm 1973-1974. Lý do: Thiếu Tá Trịnh Bá Lộc, một sĩ quan tuỳ viên của Đại tướng Dương Văn Minh, ngoài phận sự phục vụ cho Tướng Minh, ông Lộc còn làm thêm nghề chạy lo thủ tục giấy tờ cho vợ lính Mỹ, vợ các nhân vật cao cấp của Mỹ xuất cảnh. Những cô gái này muốn theo chồng hoặc theo người yêu về Mỹ phải làm đầy đủ thủ tục giấy hôn thơ hôn thú, giấy phép xuất cảnh, giấy thông hành… thủ tục xuất ngoại ở chế độ cũ cũng khá rườm rà, cũng mất khá nhiều thời gian. Thiếu tá Trịnh Bá Lộc, lúc đó để có thêm nhiều tiền đã tự động hành nghề dịch vụ xuất nhập cảnh cho vợ Mỹ. Mỗi hồ sơ phải chạy tới chạy lui về quê chứng giấy, lên Bộ Nội Vụ khai báo, xin xuất cảnh các cô vợ Mỹ và thân nhân của những người đó không thạo đường đi nước bước phải mướn những người làm dịch vụ như Thiếu tá Lộc. Mỗi hồ sơ ông ta lấy chi phí trọn gói 1,500 USD. Dịch vụ này lúc đó cũng vô cùng ì xèo, có lúc Tướng Minh phải rầy la Thiếu Tá Lộc, nhưng ông ta vẫn làm ngơ để ông Lộc kiếm sống, vì ông Lộc là con của ông Hai Tiểng, bạn của Đại Tướng Minh từ lúc nhỏ.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, dân biểu Lý Quý Chung, Đại tá Trương Minh Đẩu và tôi, thời kỳ đó thấy quá nhiều đàn bà đẹp của Việt Nam làm thủ tục để lính Mỹ dẫn về xứ, chúng tôi cũng thường hay chắc lưỡi hít hà. Sự kiện Mỹ đưa đông đảo phụ nữ Việt Nam sang nước của họ vừa là một sự kiện xã hội, kinh tế, văn hoá đã xảy ra từ năm 1973, đồng thời cũng là một dấu hiệu chính trị cho thấy người Mỹ đã rộn ràng quay về cố quốc một hai năm trước ngày giải phóng. Một số lớn người Việt Nam, những người đàn bà đẹp, đã di tản theo Mỹ trước khi chiến tranh chấm dứt. Con số “di tản” này ước lượng không phải là nhỏ, chắc cũng cả vài chục ngàn người vì tại Sài Gòn lúc đó không phải chỉ riêng văn phòng Thiếu tá Lộc làm dịch vụ đưa các “em đẹp Việt Nam sang sông”.
Về việc làm của Thiếu tá Lộc, Đại tá Trương Minh Đẩu tính hay khôi hài có lúc đã nói một câu: “Thằng Lộc làm chuyện mất tư cách, nó tham gia đưa gái Việt Nam ra nước ngoài, coi không được chút nào. Ông Tướng dễ quá. Gặp “ngộ” là không có “lược”…”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét