Đaikynguyen
Epoch TimesLời mở đầu
(Luis Novaes/Epoch Times)
Ngày tàn của Giang Trạch Dân đang đến gần. Vấn đề chính là lúc
nào, chứ không phải là nếu như, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) sẽ bị bắt. Giang chính thức lãnh đạo Trung Quốc trong hơn một
thập kỷ, và thêm một thập kỷ đứng đằng sau chỉ đạo các sự kiện. Trong
hai thập kỷ này, Giang đã làm hại Trung Quốc không kể xiết. Bây giờ thời
đại của Giang đã đến hồi kết thúc, Đại Kỷ Nguyên công bố lại loạt bài
“Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân,” lần đầu
công bố phiên bản tiếng Anh năm 2011. Qua đó độc giả có thể hiểu rõ hơn
về sự nghiệp của nhân vật then chốt đối với Trung Quốc hiện đại này.Nếu như số phận quyết định vận mệnh của một người, thì sự an bài của lịch sử cũng có khả năng dàn xếp cho một sinh mệnh có xuất thân đáng xấu hổ.
Khi Giang Trạch Dân tham dự buổi thảo luận với một đoàn đại biểu tỉnh Hồ Bắc trong một cuộc họp Quốc hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào ngày 12 tháng 3 năm 2003, ông ta nói: “Tôi từng là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nồi hơi Vũ Hán từ năm 1966 đến năm 1970. Đó là vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa… phe tạo phản [trích dẫn nguyên văn] đã cẩn thận xem xét hồ sơ [1] cá nhân của tôi. Được thôi, vì điều đó đã chứng tỏ rằng tôi có một quá khứ trong sạch.”
Có lẽ những thính giả của Giang lúc ấy không hiểu được mục đích của ông ta là gì. Tại sao Giang – Tổng bí thư của ĐCSTQ – cần tự thanh minh về “quá khứ trong sạch” của mình?
Vào năm 2005, Giang Trạch Dân đã phát hành ầm ĩ cuốn sách “Người đã thay đổi Trung Quốc”, một cuốn tiểu sử được xuất bản bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Trung, mà ông ta đã ủy thác cho một thương nhân người Mỹ tên là Robert Kuhn viết. Cuốn sách đã đại biểu cho nỗ lực công khai của Giang nhằm đánh bóng tiểu sử cá nhân vốn đã được ông ta che giấu từ lâu.
Cổ nhân có câu “lạy ông tôi ở bụi này”. Trong cuốn sách tâng bốc và thêu dệt tiểu sử của Giang, người ta để ý rằng một từ đã được lặp đi lặp lại rất nhiều lần: yêu nước. Phần mô tả thời gian ông ta học ở Trường Đại học Trung ương Nam Kinh của quân Nhật, với đủ tính ly kỳ, có tựa đề là “Tôi là người yêu nước”. Nhưng lòng ái quốc là bổn phận của mỗi công dân, là phẩm hạnh bẩm sinh, là sự trung thành với mảnh đất đã nuôi dưỡng chúng ta. Một người có tiểu sử trong sạch chẳng cần phô trương sự yêu nước của mình trước công chúng.
Một thực tế đơn giản là người cha đẻ của Giang đã chạy trốn và phục vụ cho quân chiếm đóng Nhật Bản. Trong nửa sau cuộc đời, Giang luôn nhanh chóng tránh né thảo luận về cha của mình – thậm chí theo lời người viết tiểu sử cho Giang, ông ta đã yêu cầu người khác viết như vậy. Điều duy nhất được đề cập đến trong cuốn tiểu sử của ông ta là, “Cha của Giang mất năm 1973.”
Giang tuyên bố bịa đặt rằng ông ta được nhận nuôi từ năm 13 tuổi bởi gia đình người chú – đảng viên cộng sản – Giang Thượng Thanh; nhưng nó cho thấy việc nhận nuôi đã diễn ra không lâu sau khi người chú qua đời. Giang Trạch Dân đã tốt nghiệp đại học vào tuổi 21. Vậy có lý do để thắc mắc: Ai đã nuôi Giang giữa lúc ông ta 13 tuổi và 21 tuổi? Con gái của Giang Thượng Thanh, Giang Trạch Huệ, đã nói với Kuhn rằng gia đình họ sống trong cảnh “vô cùng bần cùng và đói khổ” [2]. Nếu là như vậy, thì ai là người đã trả học phí để Giang Trạch Dân học tập tại một trường trung học dành cho quý tộc và Trường Đại học Trung ương Nam Kinh? Ai là người đã chi trả để Giang học nghệ thuật và âm nhạc trong những năm loạn lạc, chiến tranh và lạm phát phi mã ấy? Ai đã cho ông ta lái một chiếc xe jeep ngay sau khi tốt nghiệp đại học (theo như Kuhn ám chỉ)? Nói cách khác, là ai đây ngoài người bố đẻ đã hậu thuẫn cho ông ta? Liệu Giang Thượng Thanh, người đã qua đời bảy tám năm trước, có thực sự làm được vậy không?
Sự thực là cuộc sống của Giang chẳng mấy quan hệ với gia đình được khai là đã nuôi nấng ông ta. Họ chẳng liên quan gì nhau cho đến sau khi ĐCSTQ nắm quyền tại Trung Quốc thì Giang mới đột nhiên “nhớ lại” rằng ông ta có một liệt sĩ đảng cộng sản (người chú) trong gia đình? Ông ta đã phát minh ra một tiểu sử, trong đó ông ta từ bỏ người bố đẻ và trở thành con nuôi của một người đã khuất. Tuy nhiên, phần này của câu chuyện sẽ được chúng tôi trở lại sau.
Trên đây không phải ám chỉ rằng tính cách hay giá trị của một người chỉ là sản phẩm đơn thuần từ thân thế của người đó. Thay vào đó, nó gợi ý rằng chúng ta có thể bắt đầu vạch trần bản chất dối trá của Giang bằng cách xem xét xuất thân, mà đa phần được che giấu và ngụy tạo, cũng như quá khứ của ông ta. Trong những năm gần đây, Giang còn đi xa hơn nữa khi nói bóng gió rằng cha ông ta – một tên Hán gian – thực ra là một anh hùng khi chiến đấu với quân Nhật. Theo như lời của người em họ Trạch Huệ thì “Cả gia đình tôi đều theo cách mạng” [3] “Đàn ông nhà họ Giang đều đi đánh giặc” [4] và “Tất cả đều tham gia cách mạng, chiến đấu với quân xâm lược Nhật Bản và Quốc Dân đảng” [5]. Đối với những độc giả tại Trung Quốc mà không biết những tình tiết về thân thế gia đình họ Giang, những lời phát ngôn như vậy rất dễ lừa gạt họ.
Cái loa tuyên truyền chính thức của chính quyền ĐCSTQ, Nhân dân Nhật báo, đã đưa tin vào ngày 11 tháng 12 năm 2009 rằng Giang Trạch Dân và lãnh đạo Nga lúc đó là Boris Yeltsin đã ký tại Bắc Kinh ba hiệp ước về biên giới Nga-Trung. Nhưng thật khó tin, cuộc họp như vậy lại không được đề cập trong cuốn tiểu sử do Kuhn viết, trong khi những thứ vặt vãnh như là Giang đã hát một bài hát nào đó lúc nào và ở đâu, và những chi tiết không quan trọng về cuộc họp của ông ta với các lãnh đạo nổi tiếng lại được ghi trong đó. Tại sao Kuhn bỏ qua một cuộc họp cấp quốc gia, và về một vấn đề quan trọng như ký hiệp ước biên giới với Yeltsin? Nguyên là trong cuộc họp đó, Giang đã công nhận về mặt ngoại giao tất cả các hiệp ước không công bằng [với Nga] từ cuối thời Mãn Thanh – những hiệp ước mà không một chính phủ Trung Quốc tiền nhiệm nào thừa nhận. Thứ mà Giang đã ký hoàn toàn là điều ước của kẻ bán nước, trong đó làm mất những vùng đất hợp pháp mà các thế hệ sau có thể phải đi đòi lại. Hiệp ước này nhượng cho Nga hơn 1 triệu km vuông đất màu mỡ – vùng đất rộng gấp hơn 30 lần đảo Đài Loan. Thấy rằng lực lượng người Hoa lớn mạnh trên toàn thế giới có thể bắt ông ta phải giải thích về hiệp ước bán nước, Giang Trạch Dân đã cố gắng tô vẽ lại quá khứ của mình. Ông ta không nhận ra rằng, thủ đoạn đó chỉ là tự chuốc lấy thất bại mà thôi.
Trong cuốn sách của ông ta, Giang tự cho mình là một lãnh đạo có trách nhiệm, người quan tâm sâu sắc đến cuộc sống và sự đau khổ của người dân Trung Quốc. Nhưng hãy xem Giang đang làm gì trong trận lụt lớn ập vào Trung Hoa năm 1998. Vào đầu tháng 9, khi vô số người đang phải chiến đấu với nạn lụt và ở bên bờ vực của cái chết, thì Giang mời một số nam nữ diễn viên điện ảnh tới một bữa tiệc tại tổ hợp lãnh đạo Trung Nam Hải ở Bắc Kinh. Kuhn miêu tả nó là “khoảnh khắc ngẫu hứng của Giang Trạch Dân”. Lúc gặp mặt, Giang đã hát song ca với một nữ ca sĩ những bản tình ca thời xưa của Nga, chẳng hạn như “Chiều Matxcơva” (Moscow Nights) [6]. Nghe kể rằng trong lúc hưng phấn, ông ta cùng mọi người hát bài “Đại dương là quê hương tôi”. Kuhn tô vẽ rằng “đặc biệt là Giang”, vào giây phút ấy, dường như “vượt khỏi những hạn chế của nghệ thuật” [7]. Thật là nực cười. Trong khi người dân Trung Quốc đang vật lộn trong vô vọng với sóng lũ, lụt lội, nước lớn như đại dương, thì Giang đang hát bài “Đại dương là quê hương tôi” với những người bạn gái ở Trung Nam Hải. Đáng buồn thay, nhưng cũng không ngạc nhiên gì lắm khi mà Giang, một người sẵn sàng che giấu xuất thân Hán gian để leo lên địa vị cao, chẳng mấy quan tâm đến sự sống chết của người dân.
Trong tác phẩm của Kuhn, Giang xuất hiện như một hình mẫu sống đạm bạc và đấu tranh chống tham nhũng. Khi sự gia tăng tham nhũng tại Trung Quốc trong những năm qua còn chưa bị phanh phui, ít người biết được căn nguyên không ở đâu khác ngoài Giang Trạch Dân cùng gia tộc ông ta. Vì vậy mà những đứa con trai thiếu năng lực và bằng cấp của ông ta, đã xoay sở để xây dựng gia đình Giang trở thành một đế chế giàu có. Có thể nói, chúng là “Trung Quốc đệ nhất tham”.
Người ta đã đồn đãi từ lâu rằng Giang từng lặn lội giữa đêm tuyết rơi để đến đưa bánh sinh nhật cho bồ nhí của chủ tịch Thượng Hải lúc ấy là Lý Tiên Niệm. Lý đang có khách vào lúc ấy, nên Giang đã đứng đợi nhiều giờ đồng hồ ở bên ngoài để chứng tỏ lòng trung thành. Câu chuyện này thật quá ly kỳ và không thể xác thực được. Vì một số lý do lạ lùng – có lẽ là lương tâm cắn rứt? – trong tiểu sử của mình, Giang đã cố gắng bảo vệ việc đưa bánh, điều đó thực sự đóng vai trò xác thực câu chuyện kỳ lạ này. Giang nói với độc giả rằng ông ta quan tâm tới lãnh đạo của mình và đó là “chiếc bánh cuối cùng trong khách sạn” [8]. Ông ta cũng tuyên bố rằng mục đích của ông ta là đạt đến sự đồng thuận và “xây dựng mối quan hệ với nhân vật then chốt” [9]. Giả sử rằng chúng ta chấp nhận luận điểm này, thế cũng bằng như nói ở Trung Quốc không có tham nhũng và hối lộ – chẳng phải mỗi hành động kiểu như thế chỉ là để “quan tâm đến lãnh đạo” hay “đạt được sự đồng thuận và xây dựng mối quan hệ”? Điều này cũng tương đương với hợp pháp hóa tham nhũng.
Việc Giang Trạch Dân thăng quan tiến chức nhanh chóng phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là việc ngụy tạo câu chuyện về xuất thân gia đình liệt sĩ của ông ta, điều giúp Giang giành được đồng minh chính trị với Uông Đạo Hàm và Trương Ái Bình; cả hai người này sau đó đã liên tục nâng đỡ Giang. Điều đáng nói là hai người này là bạn với người chú của Giang. Thứ hai là khả năng nịnh nọt thượng cấp và chiếm cảm tình từ lãnh đạo Đảng. Cuối cùng thì hai điểm này đã cho phép Giang đoạt được ngai vàng.
Sau khi giành được quyền lực, Giang Trạch Dân như mắc bệnh điên và bắt đầu làm những trò hề như nhảy múa và hát hò trong các cuộc giao lưu ngoại giao quốc tế. Giang hoàn toàn không màng đến các nghi lễ ngoại giao cùng sự tôn nghiêm của dân tộc Trung Hoa, làm tổn hại thể diện quốc gia. Vì thế, Giang giành được danh hiệu “thằng hề”. Trong một buổi gặp gỡ với Nhà vua Tây Ban Nha, ông ta đột nhiên rút ra một chiếc lược và tự chải đầu, để những người ở đó nhìn thấy rõ. Một dịp khác, khi ông ta được tặng Huân chương, ông ta không thể chờ được và chộp lấy chiếc Huân chương rồi tự đeo cho mình. Một lần, đang trong bữa tiệc quốc gia, ông ta thình lình mời khiêu vũ một đệ nhất phu nhân nước bạn. Ông ta từ ghế nhảy lên hát bài “O Sole Mio,” vừa dạo phím piano vừa dán cặp mắt đắm đuối vào các quý cô. Những trò hề của ông ta đã trở thành kho chuyện cười cho giới báo chí Tây phương. Chúng ta hãy xem cuộc gặp của ông ta với cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Giang đã viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1993 và 1997, và Clinton đã viếng thăm Trung Quốc vào năm 1998. Mỗi lần họ gặp nhau, Giang lại chơi một số nhạc cụ hoặc hát. Sau khi biểu diễn, ông ta lần nào cũng yêu cầu Clinton chơi kèn saxophone, điều mà Clinton từ chối một cách kiên quyết, dù cho ông là một chuyên gia âm nhạc. Vào năm 1997, trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Giang, một nhà báo đã nêu ra vấn đề Tây Tạng trong một cuộc họp báo. Giang đã bất ngờ hát to bài “Nhà ở nơi xa” trước sự bối rối của các ký giả. Điển hình là Giang thường nhắc lại bài diễn văn Gettysburg của cựu lãnh đạo Abraham Lincoln. Khi nói chuyện với các sinh viên, trả lời các cuộc phỏng vấn báo chí, hay thậm chí viếng thăm nước ngoài, Giang thường kiếm cớ để nhắc lại bài diễn văn này. Khi được yêu cầu, ông ta ngoan ngoãn nhắc lại; khi không được yêu cầu, ông ta cũng nhắc lại y hệt. Nào có ra hình thù của một nguyên thủ quốc gia?
Một điều còn phi lý hơn nữa là sự ám ảnh của Giang trong việc nói ngoại ngữ. Trong lần viếng thăm Châu Mỹ La-tinh, Giang – bất chấp tuổi tác và lờ đi các vấn đề quan trọng của quốc gia – đã dành vài tháng tham dự một lớp học tiếng Tây Ban Nha tăng cường. Giang hành xử như một thằng hề, vô tình giành được ngai vàng, nên khó có thể thay đổi bản tính phô trương của mình. Trong bản tiếng Trung của cuốn tiểu sử, ông ta lý sự: “Nếu bạn không thể giao tiếp với người khác vì sự khác biệt ngôn ngữ, làm sao bạn có thể trao đổi ý tưởng hay đạt được thoả thuận?” Nhưng chỉ hiểu được vài ba thứ thông thường, rồi với kỹ năng ngôn ngữ vụng về đó, làm sao đủ để Giang có được sự giao tiếp nhanh nhạy và biểu cảm. Nhiều nguyên thủ quốc gia nói ngôn ngữ mẹ đẻ và cần một thông dịch viên. Chẳng lẽ họ không thể đạt được những thoả hiệp trong các giao lưu ngoại giao?
Có lẽ lãnh đạo của các quốc gia cộng sản thường hay bảo thủ, cho nên nhiều lãnh đạo Tây phương coi nhân vật “dễ bị kích động” Giang Trạch Dân như một kẻ lập dị của Đảng, và thấy những màn biểu diễn của ông ta thật là khôi hài.
Các lãnh đạo có tài năng thực sự và nhìn xa trông rộng không mất thời gian và công sức vào những trò nực cười như vậy. Lý do Giang Trạch Dân hoạt bát và “dễ bị kích động” liên quan đến khả năng pha trò vặt vãnh của ông ta giống như chú hề trong một số vở hí kịch. Các chính trị gia phương Tây đã trải thảm đỏ hoan nghênh Giang, không phải vì tài năng của ông ta, mà là vì các hợp đồng trong túi ông ta và triển vọng khai thác thị trường tiêu dùng khổng lồ của Trung Quốc. Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong những năm gần đây là nhờ tác động bởi hơn 500 tỷ đô-la vốn đầu tư nước ngoài, cùng với một lực lượng lao động rẻ mạt và vô cùng cần mẫn. Với sự đầu tư lớn như vậy, lao động rẻ, và nhiều nhân tài Trung Quốc tham gia, tất nhiên sản lượng phải cao. Nhưng đây không phải là công lao của Giang. Ngược lại, sự bất tài của Giang, tính kiêu ngạo, đố kỵ, và bảo thủ chính trị của ông ta đã cản trở sự cải cách chính trị, đi kèm với sự xuống cấp về giá trị đạo đức và nạn tham nhũng tràn lan. Hậu quả là dẫu nền kinh tế có phát triển thế nào, cái giá phải trả là sự cạn kiệt tài nguyên khổng lồ và sự suy thoái về sinh thái, môi trường và xã hội. Thực ra, sự thịnh vượng kinh tế bề mặt của Trung Quốc được đánh đổi với sự bền vững của môi trường. Giang đã làm hại tương lai của đất nước, để cải cách chính trị dậm chân tại chỗ nếu không muốn nói là thụt lùi, đưa tới sự lạm dụng nhân quyền và thiếu tự do tín ngưỡng. Khi đặt trong bối cảnh lịch sử, sự thống trị của Giang cuối cùng vẫn là ô nhục; ông ta đã nợ người dân Trung Quốc quá nhiều.
Giang để cho Kuhn miêu tả mình như là một người có năng lực giải quyết vấn đề một cách thông minh. Nhưng trên thực tế, khi một cuộc khủng hoảng ập tới – dù đó là lụt lội, đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, bầu cử dân chủ ở Đài Loan, hay dịch bệnh SARS – Giang luôn luôn đẩy người khác lên tuyến đầu và hèn nhát đứng đằng sau. Khi dịch bệnh SARS lan rộng tại Bắc Kinh, Giang đã tham sống sợ chết và chạy trốn xuống Thượng Hải để tỵ nạn. Nhưng trong bản tiếng Trung cuốn tiểu sử của mình, ông ta tuyên bố rằng ông ta đã “một mực ở lại Thượng Hải”, để che đậy sự trốn chạy của mình. Sự thật là, chỉ vài ngày trước chuyến bay, Giang đã ở Bắc Kinh để phát biểu tại Đại Lễ đường Nhân dân và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân. Dựa trên cơ sở nào mà ông ta sử dụng câu “một mực ở lại Thượng Hải” để chạy tội cho chính mình?
Khi không lập bè kết phái hay đi công du nước ngoài để hát hò và thể hiện, điều Giang Trạch Dân để tâm nhất là khẩn cấp đàn áp Pháp Luân Công. Khi thế giới bên ngoài chỉ thấy được Giang phân phát những cuốn sách nhỏ phỉ báng Pháp Luân Công trong các cuộc họp ngoại giao, không mấy người biết được sự phản ứng nhanh chóng của Giang sau vụ can thiệp vào tín hiệu truyền hình của các học viên Pháp Luân Công. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2002, các học viên Pháp Luân Công đã can thiệp vào tám kênh truyền hình cáp tại thành phố Trường Xuân và chiếu đoạn phim dài 45 phút về cuộc đàn áp đối với họ. Khi kể về buổi tối ngày hôm đó, cuốn sách của Kuhn trích lời một người bạn thân của Giang tại Trường Xuân. Người đó nói rằng 10 phút sau khi sự can thiệp kết thúc (9 giờ 10 phút tối), Giang Trạch Dân đã nổi khùng và gọi điện: “Các phần tử Pháp Luân Công đang phát sóng trên hệ thống truyền hình cáp của Trường Xuân!” “Ai là bí thư Thành ủy hay thị trưởng thành phố?” [10] Sự phản ứng nhanh chóng của Giang, với một sự kiện xảy ra ở một nơi cách xa Bắc Kinh, hơn nữa còn đe dọa người Bí thư Thành ủy, đã cho thấy rằng Giang thực ra là tổng chỉ huy của cuộc đàn áp Pháp Luân Công; ông ta là người chỉ thị trực tiếp về vấn đề này; và chính ông ta đã ra các mệnh lệnh. Ngược lại, khi Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade bị đánh bom, Giang Trạch Dân chẳng xuất đầu lộ diện trong nhiều ngày.
Trong cuốn tiểu sử của mình, Giang luôn cố gắng tự biện hộ cho bản thân, với thủ pháp là trích dẫn câu nói của chính mình, để tạo ra bất cứ hình ảnh nào mà ông ta thích và tô vẽ mọi thứ. Nhưng có quan chức Trung Quốc nào bị kết án tham nhũng, mà lại chưa từng tuyên bố trong một cuộc họp rằng ông ta “chống tham nhũng”? Hành động có sức thuyết phục hơn lời nói. Điều này lại càng đúng với một nhân vật lẻo mép và thích hát hò như Giang Trạch Dân.
Việc Giang bất hiếu với người cha đẻ của mình, bất trung với các tổ chức, và thiếu trung thực với nhân dân đã khiến ông ta trở thành kẻ “bất nhân, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín” [11] – một tên hề mang lại tai họa cho đất nước Trung Hoa. Việc cho phép Giang Trạch Dân hoang ngôn và viết lại tiểu sử chính là làm hại các thế hệ sau.
Tiểu sử của Giang, bạn có thể nói, tương ứng với cuộc đời của ông ta: đầy rẫy dối trá và mâu thuẫn.
Nếu thế hệ chúng ta có thể đảm trách sứ mệnh là nhân chứng của lịch sử, vậy thì hãy trả lại cho lịch sử bộ mặt thật của Giang Trạch Dân. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác của tất cả chúng ta.
Ghi chú:
[1] Dưới sự thống trị của cộng sản tại Trung Quốc, những ghi chép về mỗi cá nhân, gọi là “lý lịch”, được lưu giữ bởi nhà cầm quyền, trong đó có chi tiết về những hành vi của mỗi cá nhân, nhận thức chính trị, xuất thân gia đình, việc xuất ngoại và nhiều thứ khác như là một phương tiện để giám sát và kiểm soát dân chúng. [2] Robert Lawrence Kuhn, “Người đã thay đổi Trung Quốc: Cuộc đời và di sản của Giang Trạch Dân” (New York: Crown, 2004), tr 31. [3] Kuhn, Người đã thay đổi Trung Quốc, tr 33. [4] Sách đã dẫn, tr 32. [5] Sách đã dẫn, tr 34. [6] Sách đã dẫn, tr 366. [7] Sách đã dẫn, tr 369. [8] Sách đã dẫn, tr 125. [9] Sách đã dẫn, tr 124. [10] Sách đã dẫn, tr 490. [11] Điều này trái ngược với những đức hạnh chính yếu của con người được miêu tả bởi đức Khổng Tử là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Phụ trách Việt ngữ bởi: Nhóm biên tập Việt Nguyên
Để đọc bản gốc trên Epoch Times, vui lòng click vào đây.
********************************************
Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Lời Mở Đầu (2)
Oán khí nghìn năm tích tụ nên một thực thể tà ác
Vào năm Vũ Đức thứ 9 triều đại nhà Đường (năm 626 sau Công nguyên), Hoàng Đế khai quốc, Cao Tổ Lý Uyên, với sự phò tá của người con trai thứ Lý Thế Dân đã bình định 18 vương hầu, tiêu diệt 72 đạo phản quân, an hưởng thái bình thịnh trị, giang sơn thống nhất. Cao Tổ có bốn người con trai: Kiến Thành, Thế Dân, Nguyên Cát, và Nguyên Bá. Trong khi Nguyên Bá mất sớm, Kiến Thành, Thế Dân và Nguyên Cát đã tới tuổi trưởng thành và được phong danh hiệu lần lượt là Ẩn Vương, Tần Vương và Tề Vương. Kiến Thành và Nguyên Cát đã tư thông với hai phi tần được Cao Tổ sủng ái là Trương Diễm Tuyết và Doãn Sắt, rồi bị Thế Dân phát hiện được. Tuy sự việc chưa vỡ lở nhưng Kiến Thành và Nguyên Cát vẫn mang tâm oán hận đối với Thế Dân. Theo những quy tắc truyền ngôi từ xưa để lại, khi Cao Tổ qua đời, người con trai cả là Kiến Thành sẽ lên kế vị. Nhưng Thế Dân có công lao vô cùng to lớn, gần như một mình gây dựng giang sơn Đại Đường. Cao Tổ thường khen ngợi Thế Dân, và điều này khiến Kiến Thành và Nguyên Cát vô cùng oán giận và đố kỵ.Trên thực tế, Nguyên Cát vốn là một công tử kiêu ngạo và tự phụ, từ lâu đã thèm muốn ngai vàng. Kiến Thành thì nhu nhược và khá bất tài, chẳng thể gây trở ngại đối với hắn ta. Tuy nhiên Thế Dân lại rất có uy vọng, là một cái gai trong mắt Nguyên Cát. Hắn ta ngày đêm suy ngẫm, cuối cùng đã lập mưu ban đầu mượn Kiến Thành để trừ khử Thế Dân, sau đó sẽ trừ khử nốt Kiến Thành, rồi tự mình độc chiếm ngai vàng.
Nghe tin ấy Kiến Thành và Nguyên Cát vô cùng sợ hãi, bởi vì Thế Dân mưu lược hơn người, ôm ấp hoãi bão lớn như biển cả, văn thần dưới trướng có Tôn Vô Kỵ, Từ Mậu Công, Lý Thuần Phong, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, võ tướng có Tần Thúc Bảo (Tần Quỳnh), Trình Giảo Kim, Uất Trì Kính Đức, Lý Tĩnh, nếu được tự do sẽ trở thành vô địch. Bằng một độc kế khác, Kiến Thành và Nguyên Cát bày mưu điều động những đại tướng của Thế Dân đi thảo phạt quân Đột Quyết. Thế Dân rất tức giận trước thủ đoạn hèn mọn của hai người, đã đem những chuyện uế loạn cung đình của Kiến Thành và Nguyên Cát tâu lên Cao Tổ. Ngày hôm sau, Cao Tổ truyền lệnh cho Kiến Thành và Nguyên Cát vào cung đối chất với Thế Dân xem ai đúng ai sai. Kiến Thành và Nguyên Cát không những không tuân mệnh mà còn mang khoảng 500 quân mai phục tại Huyền Vũ Môn, chỉ đợi Thế Dân đến để hạ lệnh sát thủ. Không ngờ Thế Dân đã sớm phòng bị, trang bị đầy đủ tên giáp. Kiến Thành, Nguyên Cát vừa trông thấy Thế Dân liền bắn loạn 3 mũi tên, nhưng Thế Dân đều tránh được. Thế Dân bắn trả một mũi tên, giết chết Kiến Thành. Nguyên Cát muốn chạy trốn nhưng không thoát khỏi mũi tên từ Uất Trì Kính Đức. Câu chuyện này vốn nổi tiếng trong lịch sử, có tên gọi là “Sự biến Huyền Vũ Môn.”
Sau khi Nguyên Cát chết, linh hồn độc ác của hắn bị hạ xuống địa ngục để hoàn nghiệp. Diêm Vương biết tường tận chuyện hắn thông gian với sủng phi của phụ hoàng, giết hại hôn thê của Thế Dân, bỏ độc vào rượu rồi bắn cung ám sát Thế Dân, đều là những tội ác bất dung. Vì thế ông đã tống Nguyên Cát vào ngục Vô Gián, đả nhập hắn vào cửa Vô Sinh. Một ngàn năm sau, cái nguyên thần từng là Nguyên Cát kia đã tiêu mất, không còn hình hài sinh mệnh tiên thiên, không có tư tưởng hoàn chỉnh, duy chỉ còn một chút khí của sự đố kỵ và hận thù. Nhưng vấn đề này sẽ được đề cập sau.
Khi lên ngôi, Thế Dân xưng hiệu Thái Tông, mở ra thời Trinh Quán giàu có và thịnh vượng (627- 649 sau Công nguyên). Thái Tông nhân đức như trời bể và luôn thương xót cho bách tính. Việc kế vị ngai vàng của Thế Dân là thuận theo Thiên ý, hợp với lòng dân và ban phúc cho thiên hạ.
Vào năm Trinh Quán thứ 22, một nhà sư tên là Huyền Trang đã trở về sau chuyến hành hương sang Ấn Độ để thỉnh kinh Phật. Thái Tông đã phái một đoàn tuỳ tùng gồm hàng trăm văn võ bá quan tới nghênh tiếp tại cầu Chu Tước. Sau đó, để kỷ niệm sự kiện này, Thái Tông đã viết cuốn “Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo Tự“. Thái Tông băng hà vào năm Trinh Quán thứ 23. Suốt thời gian trị vì, Thái Tông luôn bảo hộ Phật Pháp, hoằng dương cả Đạo giáo lẫn Nho giáo. Thái Tông là người đầy đủ cả nhân, nghĩa, trí, dũng, thanh tâm quả dục, tiết chế bản thân và rất yêu thương dân chúng. Ông là người có lai lịch phi phàm, tuyệt không phải điều người thường có thể biết. Khi chuyển sinh sau này, Thái Tông vẫn mang theo chính khí thuần phác, lúc là bậc Đế vương, khi thì làm vua, có lúc là một viên tướng, khi là một văn nhân, lúc lại là một thầy dạy võ.
Tương truyền rằng ngàn năm sau, đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ tới nhân gian, lấy danh hiệu Phật Di Lặc để truyền rộng Đại Pháp cứu độ tất cả chúng sinh. Nhưng để can nhiễu sự việc Chính Pháp và cứu độ chúng sinh dưới danh nghĩa “hiệp trợ”, cựu thế lực của vũ trụ đã tạo ra một thực thể xấu xí, mang thân người nhưng hoàn toàn không có chính niệm và lý tính, mang những đặc điểm như ngu xuẩn, độc ác, bại hoại, gian dối, thô tục, tự phụ, đố kỵ, và hèn nhát. Cựu thế lực đã sử dụng một sinh mệnh độc ác tuân theo lý tương sinh tương khắc để “khảo nghiệm” những ai duy hộ Phật Pháp.
Nhân vật lố bịch được lựa chọn cho vai diễn như vậy tất nhiên rồi sẽ bị tiêu huỷ, vì đã phạm tội tày trời, thiên địa bất dung. Ai có thể đảm nhiệm vai trò này đây? Không ai khác ngoại trừ kẻ đang ở Ngục Vô Gián, kẻ đã mang sự oán hận sâu đậm với người sẽ hạ thế và cứu độ chúng sinh. Cựu thế lực đã phát hiện ra tên ác nhân “Lý Nguyên Cát” từ thời Đường Cao Tổ, cuối cùng chỉ còn lại những dấu vết của tà khí từ lòng đố kỵ, và đã dẫn thứ đó vào nhân gian dưới dạng một đám âm khí u ám trong một ngôi mộ.
Tại ngôi mộ đó có một con cóc đã ẩn nấp từ rất lâu. Khi nó mở miệng và chuẩn bị kêu thì thứ tà khí ngàn năm kia lập tức bị hút vào bụng. Nguyên thần con cóc lập tức bị trục xuất khỏi thân thể và chuyển sinh đâu đó, để cho thứ tà khí kia kiểm soát thân thể nó. Một vài năm sau con cóc này chết, và cái thứ tà linh chi khí mang hình dạng con cóc kia đã chuyển sinh thành người. Tên nó là Giang Trạch Dân.
____________________
Truyền thống người Trung Quốc vẫn tin tưởng rằng nếu cái gì đó được truyền thừa, bằng hình thức luân hồi hoặc phụ thể (động vật chiếm hữu cơ thể người), với một dạng “năng lượng” được gọi là khí – một sinh lực tạo nên sự sống cho thế giới – thì khí này có thể thành hình người.
Ghi chú của người dịch:
– Đột Quyết (Göktürk): là tên một dân tộc du mục thuộc các dân tộc Turk ở vùng núi Altai và cũng là tên gọi một hãn quốc hùng mạnh ở Trung Á thế kỷ 6 và 7.
– Ngục Vô Gián: Tầng sâu nhất của địa ngục. Người ta nói rằng một khi đã vào Ngục Vô Gián là vĩnh viễn bị đày đọa ở đó, không ra được nữa.
– Chuyển Luân Thánh Vương: Hay còn gọi là Pháp Luân Thánh Vương, là người mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong dự ngôn là sẽ hạ thế vào thời Mạt Pháp để cứu độ tất cả chúng sinh.
– Tà linh chi khí: Linh hồn tà ác được hình thành từ một đám tà khí.
Phụ trách Việt ngữ bởi: Nhóm biên tập Việt Nguyên
Để đọc bản gốc trên Epoch Times, vui lòng click vào đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét