Đatviet
(Tài chính)
– Trung Quốc luôn đi tìm ảnh hưởng về mặt chính trị, kinh tế, quân sự ở
Việt Nam, thành ra những nguồn viện trợ của Trung Quốc phải hết sức cẩn
trọng.
- Bô xít Tây Nguyên: Nên đánh giá hiệu quả khách quan hơn!
- Đường sắt Cát Linh – Hà Đông: Nhà thầu Trung Quốc hứa
TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nhấn mạnh như vậy khi bàn về nguồn vốn ODA Trung Quốc tài trợ cho Việt Nam.
PV: – Nhiều dự án lớn của Việt
Nam đang thiệt đủ đường vì vay vốn tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung
Quốc, thậm chí có chuyên gia nói rằng Việt Nam đã ‘sập bẫy’. Đơn cử như
dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông từng xảy ra sự cố mất an toàn nghiêm
trọng gây thiệt hại về người và tài sản, chậm tiến độ, đội vốn… Hay dự
án bô xít Tây Nguyên đang vấp phải nhiều nghi ngại càng làm càng thua lỗ
nặng. Những điều này đã được lường tới khi Việt Nam nhận vốn của Trung
Quốc hay chưa thưa ông?
TS Nguyễn Trí Hiếu: – Việt Nam đang
có nhu cầu vốn rất lớn nên dễ dàng chấp nhận nguồn vốn ODA. Nhưng trong
quá khứ, nhiều dự án ODA Việt Nam đã không toan tính cẩn thận và cuối
cùng, nguồn vốn đó không những không giúp gì nhiều cho vấn đề phát triển
kinh tế Việt Nam mà còn có ảnh hưởng đến môi trường.
Do đó, nguồn vốn ODA cần phải suy xét ở nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, phải có sự tính toán kỹ lưỡng xem những nguồn vốn đó giúp gì cho vấn đề phát triển kinh tế.
Thứ hai, nó ảnh hưởng đến môi trường sinh thái của Việt Nam như thế nào.
Thứ ba, nguồn nhân lực tham gia vào dự án ODA phải
được tính toán kỹ để giải quyết vấn đề lao động. Có những dự án ODA đòi
hỏi phải có chuyên gia nước ngoài là điều cần thiết, tuy nhiên, một số
dự án ODA của Trung Quốc đem lao động của họ qua, có lẽ là điều Việt Nam
không nên chấp nhận.
Viện trợ ODA có thể mang lợi lại cho nước tiếp nhận
nhưng đi kèm với nó là rất nhiều điều kiện. Ngay cả chính phủ Nhật khi
tài trợ các dự án ODA cũng có điều kiện, chẳng hạn mua hàng của họ, sử
dụng công nghệ của họ… Những điều kiện như thế cần suy xét chặt chẽ chứ
không thể vì cần vốn mà dễ dàng chấp nhận.
Dự án bô xít Tây Nguyên do Trung Quốc làm tổng thầu EPC |
PV: – Bản chất ODA không phải là
“tiền chùa” như nhiều người vẫn cố ý hiểu lầm mà là sự ràng buộc vay nợ
đi kèm nhiều rủi ro. Đối với ODA Trung Quốc, ngoài những đặc điểm chung,
nó còn có điểm gì khác biệt và liệu nó có tác động tiêu cực gì đến
những nhận tài trợ?
TS Nguyễn Trí Hiếu: – Nói chung,
nguồn tài trợ ODA không phải là nguồn tiền cho không mà luôn luôn đi kèm
điều kiện đối với nước nhận tài trợ và có thể được giấu kín dưới hình
thức nào đó.
Trường hợp của Trung Quốc, dĩ nhiên khi tài trợ một dự
án bằng vốn ODA không bao giờ họ nói rõ hết ý đồ của họ. Nhưng Việt Nam
phải hiểu rằng Trung Quốc là nước luôn đi tìm ảnh hưởng về mặt chính
trị, kinh tế, quân sự ở Việt Nam, thành ra những nguồn viện trợ của
Trung Quốc phải hết sức cẩn trọng.
Như trường hợp Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á
(AIIB), nhiều nước đã lên tiếng cho rằng Trung Quốc khởi xướng thành lập
ngân hàng này không phải chỉ phục vụ cho quyền lợi của thế giới mà họ
có ý đồ muốn nắm quyền chủ động. Không ai biết khi Trung Quốc nắm quyền
chủ động thì sẽ đưa một chương trình lớn như thế đi về đâu.
Cùng chiều hướng đó, vấn đề Việt Nam nhận tài trợ ODA
của Trung Quốc phải làm rõ mục đích của họ là gì, họ đi tìm tầm ảnh
hưởng nào. Không thể loại trừ ý đồ chính trị, thương mại, xã hội… của
những quốc gia tài trợ các dự án ODA. ODA là nguồn tài trợ mang lại lợi
ích cho nước nhận và nước cung cấp, thành ra đối với Trung Quốc, Nhật
Bản hay các nước khác, chúng ta phải chấp nhận ý đồ của họ nhưng phải
làm sao có thể hài hoà nó với mục đích phát triển kinh tế của đất nước,
không thể cứ thấy nguồn vốn ODA là nhào vào chấp nhận.
Thường thì các chương trình ODA không kèm theo điều
kiện phải sử dụng công nhân của nước họ, có chăng là đòi hỏi phải sử
dụng một số trang thiết bị nhập khẩu từ quốc gia của họ, các chuyên
gia… Nhưng bắt buộc phải sử dụng lao động của nước cung cấp ODA thì tôi
thấy đây là trường hợp đặc biệt của Trung Quốc.
*********************
Vốn vay từ Trung Quốc: Điều chúng ta không nên chấp nhận -(2)
(Tài chính)
– Trung Quốc luôn đi tìm ảnh hưởng về mặt chính trị, kinh tế, quân sự ở
Việt Nam, thành ra những nguồn viện trợ của Trung Quốc phải hết sức cẩn
trọng.
- Bô xít Tây Nguyên: Nên đánh giá hiệu quả khách quan hơn!
- Đường sắt Cát Linh – Hà Đông: Nhà thầu Trung Quốc hứa
PV: – Xét riêng trong bối cảnh
Việt Nam, những rủi ro từ vốn vay của Trung Quốc là gì khi Trung Quốc
trúng tới 90% dự án tổng thầu EPC tại Việt Nam và dù Trung Quốc không
phải là nước thuộc nhóm cung cấp vốn ODA lớn nhất cho Việt Nam nhưng lại
nắm nhiều dự án ở vị trí trọng yếu?
TS Nguyễn Trí Hiếu: – Trong kinh
doanh, tập trung cao vào một đối tượng nào đó luôn mang rủi ro lớn. Việt
Nam tập trung nhiều dự án vào Trung Quốc như vậy, một khi Trung Quốc có
thay đổi, lập tức Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, chưa kể Việt Nam và
Trung Quốc có quan hệ phức tạp, do đó làm việc với Trung Quốc phải cân
nhắc rất cẩn thận.
PV: – Việt Nam đã nếm nhiều trái đắng từ vốn vay của Trung Quốc, vậy bài học cần rút ra là gì và phải được điều chỉnh ra sao?
TS Nguyễn Trí Hiếu: – Như tôi đã nói,
trong lịch sử từ trước tới nay, Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ mang
tính đặc thù, khác với các nước khác, do đó thường tiềm ẩn rủi ro.
Để giảm thiểu điều này, Việt Nam phải phân bổ nguồn
lực đầu tư với các quốc gia khác, không dựa quá nhiều vào Trung Quốc về
mặt tài chính, mậu dịch cũng như hàng hoá. Đây là điều rất khó vì hiện
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc trong vấn đề nhập khẩu hàng hoá.
Hàng hoá Trung Quốc vừa rẻ, chất lượng ngày càng tốt, còn Việt Nam là
nước nghèo nên dĩ nhiên là phải mua, nhưng việc lệ thuộc vào Trung Quốc
rất nguy hiểm.
Do đó, Việt Nam cần phân bổ vấn đề mua bán, mậu dịch với Trung Quốc cũng như vốn đầu tư với Trung Quốc ở tỷ lệ an toàn.
Có lẽ chưa bao giờ Việt Nam đưa ra vấn đề này: thế nào
là tỷ lệ an toàn, từ mậu dịch đến đầu tư? Nhưng đây là lúc Quốc hội
phải đưa ra những thông số để ít nhất Việt Nam có thể dựa vào đó để hiểu
mức độ an toàn của mình như thế nào. Thông số đó không phải như người
Mỹ nói là phải luôn luôn khắc vào đá, không mang tính vĩnh viễn mà có
thể thay đổi theo từng thời kỳ, từng điều kiện, nhưng ít nhất Việt Nam
phải có. Những thông số này phải được kiểm soát dưới một giới hạn nào đó
để khi mình vượt hoặc sắp chạm tới thì sẽ biết được độ rủi ro.
PV: – Nỗ lực giảm bớt sự phụ
thuộc vào Trung Quốc đã được đặt ra từ lâu. Nếu không nghiêm túc nhìn
nhận nó và điều chỉnh, hậu quả sẽ thế nào, thưa ông?
TS Nguyễn Trí Hiếu: – Rủi ro càng
nhiều thì thiệt hại càng lớn, mà thiệt hại lớn nhất của kinh tế Việt Nam
khi lệ thuộc vào Trung Quốc là có thể rơi vào khủng hoảng.
Nguồn vốn ODA cũng vậy, khi Việt Nam dựa nhiều vào
Trung Quốc, có nhiều dự án liên quan đến Trung Quốc, khi bên Trung Quốc
có chủ trương nào bất lợi cho Việt Nam, họ có thể dùng những công cụ tài
chính này và những công cụ thương mại mậu dịch để tăng cường áp lực cho
Việt Nam. Trong trường hợp này, nếu những rủi ro đó trở thành thiệt hại
thì những thiệt hại đó không thể lường trước được.
Hàng ngàn năm trước, Việt Nam đã có kinh nghiệm với
Trung Quốc. Ngay trong lịch sử hiện đại, giữa hai nước cũng xảy ra những
tranh chấp. Điều đó chứng tỏ quan hệ hai nước rất phức tạp và mang tính
chất rủi ro cho Việt Nam. Thành ra đối với Trung Quốc, giảm bớt phụ
thuộc vào Trung Quốc không thể dừng ở mức độ hô hào mà phải có các chính
sách, đưa ra những mức độ hạn chế rủi ro. Quốc hội cần có uỷ ban theo
dõi những mức độ đó, đưa ra cảnh báo cho Chính phủ.
Trung Quốc là một đối tác quan trọng về kinh tế chính
trị, xã hội, quân sự… với Việt Nam nên không thể lúc nào cũng tiêu cực.
Trong quan hệ “vừa yêu vừa ghét” ấy, các nhà lãnh đạo cần có chủ trương
chính xác, rõ ràng trong bất cứ thời kỳ nào, lĩnh vực nào.
-
Thành Luân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét